Thứ Năm, 10 tháng 9, 2009

Chân dung 100 nhà văn (thơ) qua cái nhìn của nhà thơ Xuân Sách

Đã ấp ủ từ lâu nhưng đến nay mới may mắn sưu tập đầy đủ tên các nhà văn nhà thơ được nhắc đến ở đây. Càng may hơn khi tình cờ sưu tầm được gần đủ các chân dung . Dù không nêu đích danh một ai, nhưng với vài nét phác thảo, những người quan tâm đến văn học vẫn cõ thể nhận ra từng đối tượng. Những nét miêu tả, do đặc tính của thể loại, đôi khi có vẻ phiến diện và mất cân đối nhưng vẫn mô tả được chân dung nhân vật. Để làm sáng tỏ hơn hoàn cảnh ra đời của tác phẩm văn học độc đáo này, tôi xin đăng bài viết của nhà thơ Ngô Minh .

Hoàng Guitar

Xuân Sách - Người tạc chân dung thời đại mình

Xuân Sách là nhà văn đã “ngộ” ra thời cuộc trước nhiều người, đã phát biểu bằng thơ về hoàn cảnh, thân phận trớ trêu của các nhà văn Việt Nam ở miền Bắc thuộc loại sớm nhất. Nhà văn là tầng lớp tuy ít ỏi, nhưng họ thể hiện rõ nhất bộ mặt tinh thần của xã hội qua từng giai đoạn. Nên
Chân dung nhà văn chính là chân dung thời đại họ sống. Đến những năm 80 của thế kỷ trước Hoàng Ngọc Hiến mới phát hiện ra “văn học phải đạo”, Nguyễn Minh Châu mới đọc “lời ai điếu” cho loại “văn chương minh hoạ”, những năm 90 Chế Lan Viên mới có Di cảo thơ I, Di cảo thơ II sám hối về những cái “không thể” xót xa của mình; rồi mãi đến năm 2006 Nguyễn Khải mới Đi tìm cái Tôi đã mất, Đào Hiếu mới viết Lạc đường v.v.. thì Xuân Sách đã “phổ biến” thơ chân dung từ 40 năm trước. Đây là chân dung một nhà phê bình:

Vị nghệ thuật nửa cuộc đờI
Nửa đời còn lại vị người ngồi trên
Thi nhân còn một chút duyên
Lại vò cho nát lại lèn cho đau
Bình thơ tới thuở bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
Giật mình mình lại thương mình
Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan


hay chân dung một vài nhà thơ hàng đầu:

Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn
Ta nghĩ tới vàng sao từ thuở ấy
Chim báo bão, lựa chiều cơn gió dậy
Lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa


Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường, hoa ở đây


Chân dung một nhà văn:

Ván bài lật ngửa tênh hênh
Con đường thiên lý gập ghềnh mãi thôi
Thay tên đổi họ mấy hồi
Vẫn chưa tới được chân trời mộng mơ


Những bức ký hoạ, đặc tả chân dung bằng lối chơi chữ tài tình, lấy tên các tác phẩm của từng nhà văn để vẽ nên gương mặt thật của mỗi người của Xuân Sách không chỉ là sự trêu chọc tính cách của một người mà còn là bức chân dung đích thực của hoàn cảnh xã hội nhà văn sống. Cho nên 48 năm đời văn Xuân Sách, ông xuất bản đến 8 tập tiểu thuyết và truyện, 5 tập thơ, trong đó có những cuốn truyện nổi tiếng:
Đội thiếu niên du kích Đình Bảng; bài thơ “Đường chúng ta đi” nhạc sĩ Duy Du phổ thành bài hát cùng tên rất nổi tiếng, mỗi lần hát lên đều xúc động niềm tự hào dân tộc; nhưng nhắc đến Xuân Sách mọi người thường gọi anh là “Nhà thơ chân dung” vì anh có tập thơ Chân dung nhà văn gồm 99 bài thơ chân dung nhà văn và một bài “Tự hoạ” súc tích, ngắn gọn, đầy bản lĩnh, đầy nhân văn và cũng đầy hệ luỵ, tai tiếng… Nhà thơ chỉ đánh số bài, không ghi rõ tên ai, nhưng đọc thơ, người đọc am hiểu văn chương đều nhận ra nét biếm hoạ tài hoa từng gương mặt đã biến dạng đi vì thời thế. Đó là một “sự kiện” không thể quên của lịch sử văn học Việt Nam.

Tôi quen biết anh Xuân Sách từ khi anh “đi bước nữa” với chị Thanh Tú, một người phụ nữ Quảng Bình quê tôi. Hai người về sống ở Vũng Tàu và gần như năm nào anh cũng về thăm quê vợ rồi vô Huế chơi với bạn bè. Tháng 7-1992, anh ghé Huế chơi, tặng tôi một cuốn
Chân dung nhà văn, tôi đọc thấy mê quá liền đi ra phố photo ra thành mấy chục bản tặng bạn bè để bắt khao rượu. Có dịp tôi vào viết ở Nhà sáng tác Vũng Tàu, tìm đến thăm anh và chị Tú. Lúc đó anh vừa đi tham quan Malaysia về. Anh khui chai rượu Tây mang về từ chuyến đi, rót chạm cốc với tôi và nhà thơ Lê Huy Mậu (bây giờ Mậu là chủ tịch Hội Văn nghệ Bà Rịa – Vũng Tàu như anh Sách ngày nào, người có bài thơ “Khúc hát sông quê” mà Nguyễn Trọng Tạo phổ nhạc thành ca khúc được nhiều người ưa thích). Anh bảo: “Có lẽ đấy là ân huệ cuối cùng của chính quyền dành cho mình”. Nói rồi anh kể chuyện làm thế nào để cuốn chân dung xuất bản chót lọt.

Cậu bảo làm sao vẽ
hết chân dung một thời
những kỳ nhông biến ảo
mặt nạ cười càng tươi


(Ngô Minh)

Anh còn kể chuyện từ khi tập thơ
Chân dung nhà văn phát hành rộng rãi, lãnh đạo địa phương không muốn anh làm chủ tịch Hội Văn nghệ, muốn “cơ cấu” người khác, nhưng anh em vẫn bầu anh cho đến khi đến tuổi hồi hưu.

Gặp anh là nghe đọc thơ chân dung, kể chuyện làm thơ chân dung say sưa, sổi nổi hết buổi. Người anh gầy guộc lên nước như gỗ lũa. Anh là người đáo để, trẻ trung, châm chọc rất thông minh, lém lỉnh. Anh có lối kể chuyện rất hóm, bộc trực lôi cuốn với ánh mắt long lanh, nụ cười cởi mở, cái kiểu cười của người chưa từng sợ là gì. Có lần tôi cùng đoàn làm phim của Đài Truyền hình Huế ra Đồng Hới để quay bộ phim chân dung nữ nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ do tôi viết kịch bản. Thấy anh đang ngồi chơi ở Hội Văn nghệ tỉnh, tôi nghĩ ngay ra cảnh Lâm Thị Mỹ Dạ gặp gỡ với bạn bè văn nghệ Quảng Bình. Tôi mời anh và kéo mọi người ra Quán Nghệ sĩ của nhạc sĩ Hoàng Sông Hương bên cầu Mụ Kề ngồi nhâm nhi tí bia để quay phim. Vừa chạm ly, có người đề nghị Xuân Sách đọc thơ chân dung, thế là anh đọc say sưa từng bài, đọc rồi giảng giải rất chi tiết, vì sợ những người trẻ ít đọc sách không hiểu. Thế là cả đoàn làm phim chúng tôi phải mất cả buổi sáng chỉ để quay một cảnh chưa đến một phần ba phút, Nhưng anh em trong đoàn ai cũng ngạc nhiên thích thú khi ngồi trước “ông tiên” lạ lùng Xuân Sách.

Xuân Sách kể trong “Tâm sự của tác giả” in đầu tập thơ rằng, anh bắt đầu nảy ra ý định làm thơ chân dung là nhờ một bài thơ chữ Hán của nhà văn Nguyễn Trọng Oánh. Năm 1962, trong quân đội có đợt học tập Nghị quyết 9, nghị quyết chống xét lại căng thẳng lắm. Anh em văn nghệ thường hay ngồi sau cùng để được “tự do” hơn. Nhà văn Nguyễn Trọng Oánh xé vỏ bao thuốc lá Tam Đảo ghi một bài thơ bằng chữ Hán trao cho Xuân Sách. Ở
Văn nghệ Quân đội thời ấy hai người biết chữ Hán nên được anh em gọi là “ông đồ Nghệ, ông đồ Thanh” (Thanh là Thanh Hoá, quê của Xuân Sách). Bài thơ chữ Hán vịnh Xuân Thiều. Xuân Thiều có cái đầu hói bóng, tóc lưa thưa, con đường văn chương còn lận đận. Mới in được tập truyện ngắn Đôi vai và tiểu thuyết Chuyển vùng. Bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trọng Oánh:

Văn nghiệp tiền trình khả điếu quân
Mao đầu tận lạc tự mao luân
Lưỡng kiên mai liễu phong trần lý
Chuyển địa hà thời chuyển đắc ngân.


Xuân Sách dịch:

Con đường văn nghiệp thương ông
Lông đầu rụng hết như lông cái đầu
Đôi vai gánh mãi càng đau
Chuyển vùng nào nữa làm sao thành tiền.


Câu chơi chữ “đểu” nhất, “nói thanh giảng tục” là câu:
Lông đầu rụng hết như lông cái đầu. Bài thơ được anh em Văn nghệ Quân đội chuyền tay nhau đọc và ai cũng nén cười vì đang giờ học chính trị. “Còn Nguyễn Minh Châu thì gục xuống bàn kìm nén tiếng cười đến nỗi mặt đỏ bừng và nước mắt giàn dụa”.

Thế là Xuân Sách nảy ra ý định viết thơ chân dung, lấy tên tác phẩm của nhà văn và thái độ sống, bản lĩnh văn chương của họ làm chất liệu để ký hoạ chân dung chính họ. Mới xem tưởng như là một sự trêu đùa. Nhưng thực ra những bài thơ chân dung của Xuân Sách không đùa tí nào, mà rất nghiêm túc vì nó phản ảnh một sự thật đau lòng là không ít nhà văn của chúng ta không còn là mình nữa, không còn là nhà văn của thân phận con ngườì nữa. Đó là sự mô tả tính cách và sự đánh giá nhà văn. Đau xót lắm, nhưng không nói ra thì không ai biết. Chân dung nhà văn đầu tiên mà Xuân Sách ký hoạ bằng thơ là nhà văn Hồ Phương (thiếu tướng, đã nghỉ hưu, vừa có tiểu thuyết
Cha và con viết về ông Nguyễn Sinh Sắc và Nguyễn Sinh Cung, tên tuổi nhỏ của Chủ tịch Hồ Chí Minh). Lúc này, anh Hồ Phương mới có tác phẩm Trên biển lớn, Xóm mới, Cỏ non và truyện ngắn đầu tay “Thư nhà”:

Trên biển lớn lênh đênh sông nước
Ngó trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đã già
Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.


Nghĩa là cuộc nhà văn không còn gì để viết nữa, ngứa nghề lại giở bài viết cũ ra xem. Nhà văn Hồ Phương giận lắm, còn Nguyễn Khải thì bảo: “Thằng này ghê thật, không phải trò đùa nữa rồi!”

Từ đó các bài thơ chân dung ra đời được mọi người chép chuyền tay nhau đọc trong các cuộc rượu. Những nhà văn quân đội lúc ấy như Vương Trí Nhàn, Định Nguyễn, Trần Hoàng Bách… rất hăng hái phổ biến thơ chân dung của Xuân Sách. Tướng Lê Quang Đạo lúc ấy là phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cũng rất thích thơ chân dung của Xuân Sách. Sự quan tâm yêu thích của tướng Đạo rất có lợi cho Xuân Sách, vì lúc ấy có nhiều người bắt đầu lên tiếng phê phán. Theo nhà văn Hoàng Lại Giang thì sau giải phóng, tướng Trần Độ về Vũng Tàu, ghé anh Xuân Sách muốn nghe chính tác giả đọc "chân dung". Nghe xong anh Độ vẫn thấy chưa "đã". Anh ngỏ nhờ anh Xuân Sách ghi âm lại...

Xuân Sách đến đâu là đều “bị” mọi người đề nghị anh đọc thơ chân dung. Khen có, giận có, nguyền rủa có. Đã có đơn của cả một nhóm nhà văn cùng ký tên gửi lên trên phản đối kịch liệt. Nhưng cũng có những nhà văn đã bày tỏ sự thú vị khi được nghe chính Xuân Sách đọc thơ chân dung về mình, như Xuân Diệu, Nguyễn Tuân. Chế Lan Viên có bài chân dung rất “nặng đô” (
Lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa) cũng không nói gì, vẫn bắt tay Xuân Sách thân thiện. Nhà văn hóa Đặng Thai Mai còn nhiều lần gọi Xuân Sách, bảo anh làm thơ chân dung về mình. Nhà phê bình Hoài Thanh đọc bài thơ hoạ chân dung mình chỉ đề nghị sửa một chữ. Nghĩa là ông đồng tình, dù bài thơ nói lên sự thật rất đau đớn về sự nghiệp của tác giả Thi nhân Việt Nam. Trong tập thơ Chân dung nhà văn không chỉ những tính cách, gương mặt khốn khổ, méo mó, dị dạng vì ươn hèn, luồn cúi, để kiếm chức kiếm tiền, hay vì vô tư ngộ nhận, mà còn có những chân dung Xuân Sách rất ưu ái, tỏ lòng chia sẻ. Ví dụ bài thơ chân dung Nguyên Ngọc:

Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một mạch nước ngầm
Cuốn trôi Đất Quảng lẫn rừng xà nu


Hay chân dung Quang Dũng:

Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi
Về làm xiếc khỉ với đời thôi
Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm
Sống tạm cho qua một kiếp người
Áo sờn thay chiếu anh về đất
Mây đầu ô trắng, Ba Vì xanh
Gửi hồn theo mộng về Tây tiến
Sông Mã gầm lên khác độc hành


hay Nguyễn Khoa Điềm:

Một mặt đường khát vọng
Cuộc chiến tranh đi qua
Rồi trở lại ngôi nhà
đốt lên ngọn lửa ấm
Ngủ ngoan A Kai ơi
Ngủ ngoan A Kai à


Thu Bồn:

Chim Chơrao cất cánh ngang trời
Tình như chớp trắng cháy liên hồi
Đám mây cánh vạc tan thành nước
Mà đất bazan vẫn khát hoài…


hay chân dung Bùi Minh Quốc, Trần Mạnh Hảo, Lưu Quang Vũ, Dương Thu Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường… cũng được Xuân Sách ưu ái, cảm thông chia sẻ

Nhưng làm thơ chân dung không ly kỳ hồi hộp bằng việc in thơ chân dung thành sách. Có nghĩa cấp giấy khai sinh cho những bài thơ đã nhiều năm lưu truyền không chính danh trong giới văn chương và trong xã hội. Khi lượng thơ chân dung đã lên đến số trăm, Xuân Sách nghĩ đến việc xuất bản nó. Nhưng nhà xuất bản nào dám in loại thơ “nói xấu” đồng nghiệp, “có vấn đề” như vậy? Trong một buổi hoàng hôn trên bờ biển Vũng Tàu mùa hạ năm 2004, anh Xuân Sách đã kể tôi nghe về những “mẹo mực” để cho cuốn sách ra đời.

Năm 1991, một lần ra Hà Nội họp, Xuân Sách nghĩ chỉ có Lữ Huy Nguyên vốn bao năm tâm đầu ý hợp, hiểu Xuân Sách lại là người khí khái, trung thực, ghét của giả, mới dám in loại thơ này. Anh bàn với nhà thơ Lữ Huy Nguyên, giám đốc Nhà xuất bản Văn học về việc in một tập thơ nhỏ. Lữ Huy Nguyên ngỡ là tập thơ mới của Xuân Sách nên đồng ý ngay: “Anh cứ đưa bản thảo cho nhà xuất bản. In ngay”. Nhưng Xuân Sách nghĩ, nếu đưa bản thảo ở Hà Nội, anh em biên tập viên đọc thấy thơ chân dung “nói xấu” nhà văn này nhà văn khác, họ sẽ báo cáo lên trên ngay. Thế là Xuân Sách nghĩ ngay đến việc nhờ nhà văn Hoàng Lại Giang (quê Bình Định, hiện nghỉ hưu ở Sài Gòn) một thời là trưởng chi nhánh của Nhà xuất bản Văn học tại TP Hồ Chí Minh, một người khí khái, tâm huyết với đời. Trong hồi ức “Con đường đi của
Chân dung nhà văn”, Hoàng Lại Giang kể rằng, anh Xuân Sách mời anh đến Vũng Tàu, cho nghe hết toàn bộ băng thu giọng đọc thơ chân dung, rồi “tôi và anh Xuân Sách bàn nhau việc in ‘chân dung nhà văn’… Chỉ lo vấn đề kỹ thuật in.” Thế là Xuân Sách điện mời Lữ Huy Nguyên, giám đốc Nhà xuất bản Văn học vào Vũng Tàu để cùng bàn. Xuân Sách đọc cho Lữ Huy Nguyên nghe cả trăm bài thơ chân dung. Chỉ chọn 99 bài, viết thêm bài “tự hoạ” chân dung mình, còn một số bài chân dung “gay cấn” quá phải để lại. Khi đọc riêng từng bài, độ đậm đặc của tư tưởng không lớn, nhưng khi tập hợp thành tập thì vấn đề nhân văn, vấn đề xã hội nổi lên rất bức thiết. Lữ Huy Nguyên cầm tay Xuân Sách lắc lắc, đồng ý in tập thơ: “Nếu có gì thì em sẵn sàng chịu mất chức giám đốc, về làm thơ. Nhưng phải đưa thơ này ra cuộc đời cho mọi người được đọc.” Nhưng in bằng cách nào? Muốn in phải qua tay vài biên tập viên, trưởng phòng, đánh máy, đưa đi nhà in, chấm mo-rát… nghĩa là phải qua tay nhiều người, một mình giám đốc nhà xuất bản không làm được. Mà nhiều người thì sẽ lộ. Cộng tác viên của PA25 nơi nào cũng có, họ sẽ chặn ngay. Bàn bạc mãi, hai nhà thơ thân thiết đã nghĩ ra một “quy trình” in tập thơ: Nhà thơ Xuân Sách tự viết tay lấy những bài thơ của mình, rồi chụp phim, chứ không đánh máy. May mà chữ viết của Xuân Sách rất đẹp, nên khi in ra sách thấy gần gũi, sang trọng hơn chữ in máy. Bìa trình bày đơn giản, không gây sự chú ý. Lữ Huy Nguyên, Hoàng Lại Giang cùng vài cán bộ thân cận nhất của mình trực tiếp đưa đi nhà in. Nhà in thì chọn một nhà in đặc biệt là nhà in Bộ Nội vụ (Bộ Công an bây giờ), vì ở đó họ luôn tin rằng những ấn phẩm in ở đấy đều là chính thống, nên ít có cộng tác viên PA25. Đó là một bất ngờ thú vị. Kế hoạch của hai người quả là mẹo Gia Cát Lượng. Sách in 3000 cuốn, phát hành ngon ơ với giá 22 đồng (tiền thời đó). Khi mọi sự đã rồi, “các nhà” phát hiện ra thì Lữ Huy Nguyên đi điều trần, giải thích, đơn giản hoá vấn đề cho mọi người yên tâm. Lữ Huy Nguyễn trực tiếp viết lời cuối sách: “Chúng tôi coi đây là nét tự trào của giới cầm bút”, “những chân dung vốn đã khá phổ biến trong và ngoài giới văn học suốt vài chục năm qua”, ”có thể gây ra sự không hài lòng đây đó…”, ”Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí, ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước… Rất mong độc giả và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn và lượng thứ cho những khiếm khuyết” (Lời cuối sách). Tất cả công việc duyệt bài, biên tập, in ấn chỉ làm chớp nhoáng trong một tuần là nộp lưu chiểu và phát hành. Tập thơ Chân dung nhà văn ra đời như một quả bom nổ trong làng văn Việt Nam. Nó khơi dậy những suy nghĩ thật, những tình cảm thật của mỗi người cầm bút.

Nhưng trước áp lực căng thẳng của dư luận, Hội Nhà văn phản đối việc xuất bản
Chân dung, buộc Bộ Văn hóa phải thu hồi Chân dung, và kỷ luật thích đáng đối với tác giả và những người liên quan. Bộ Văn hoá đã mở một cuộc họp để quyết định số phận sách Chân dung. Cuộc họp gồm có 5 người. Ba người chủ trì là Thứ trưởng Bộ Văn hóa Phan Hiền, nhà thơ Huy Cận và nhà thơ Nông Quốc Chấn. Nhà văn Vũ Tú Nam đại diện Hội Nhà văn, Lữ Huy Nguyên đại diện Nhà xuất bản Văn học. Nhờ sự vận động hậu trường, khi bỏ phiếu, có 3 phiếu ủng hộ, chỉ 2 phiếu chống. Kết luận cuối cùng là phê bình và cho niêm phong số sách Chân dung còn lại. Thế là thoát.

Bây giờ đã 16 năm sau khi tập thơ
Chân dung nhà văn của Xuân Sách ra đời, nhà thơ cũng đã thành người thiên cổ, nhưng các nhà văn được vẽ chân dung dường như đã “ngộ” ra một chặng đường dài mình đã sống ngoài mình và viết cái ngoài mình, “thời thế thế thời phải thế”, nên càng hiểu và yêu mến Xuân Sách hơn. Nhân ngày đưa tang nhà thơ Xuân Sách ở Hà Nội, tôi ở xa không về viếng anh được, bèn nhớ lại những kỷ niệm về anh, những chuyện cũ chép lại, như một nén nhang tưởng niệm. Có điều gì sơ suất rất mong các nhà văn và bạn đọc thể tình lượng thứ…

Huế, 12-6-2008


1. Hồ Phương


Trên biển lớn mênh mông sóng nước
Ngó trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đã già
Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.

2. Nguyễn Đình Thi

Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
Bay chi mặt trận trên cao ấy
Quên chú nai đen vẫn đứng chờ.

3. Tô Hoài


Dế mèn lưu lạc mười năm
Để O Chuột phải ôm cầm thuyền ai
Miền tây sen đã tàn phai
Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang.

4. Nguyên Hồng

Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
Sóng gầm sông Lấp mấy ai hay
Cơn bão đến động rừng Yên thế
Con hổ già uống rượu giả vờ say

5. Nguyễn Công Hoan

Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
Bởi còn tranh tối bác nhầm thôi
Bới tung đống rác nên trời phạt
Trời phạt chửa xong bác đã cười.

6. Nguyễn Tuân

Vang bóng một thời đâu dễ quên
Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
Tờ hoa lại trót lỡ ưu phiền.

7. Huy Cận

Các vị La hán chùa Tây phương
Các vị gày quá tôi thì béo
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
Bây giờ tôi hát đất nở hoa
Tôi hát chiến tranh như trẩy hội
Không nên xấu hổ khi nói dối
Việc gì mặt ủ với mày chau
Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu!
8. Xuân Diệu

Hai đợt sóng dâng một khối hồng
Không làm trôi được chút phấn thông
Chao ơi ngói mới nhà không mới
Riêng còn chẳng có, có gì chung.
9. Tế Hanh

Quá tuổi hoa niên đã bạc đầu
Tình còn dang dở tận Hàng Châu
Khúc ca mới hát sao buồn thế
Hai nửa yêu thương một nửa sầu.
10. Chế Lan Viên

Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn
Ta nghĩ tới vàng son từ thuở ấy
Chim báo bão, lựa chiều cơn gió dậy
Lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi
sắc phù sa
Thay đổi cả cơn mơ,
ai dám bảo con tầu không mộng tưởng
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tầu, ta cũng uống
Mặt anh em trong suối cạn
Hội nhà văn
11. Nguyễn Thi

Trăng sáng soi riêng một mặt người
Chia ly đôi bến cách phương trời
Ước mơ của đất anh về đất
Im lặng mà không cứu nổi đời.
12. Kim Lân

Nên danh nên giá ở làng
Chết về ông lão bên hàng xóm kia
Làm thân con chó xá gì
Phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn.
13. Tú Mỡ

Một nắm xương khô cũng gọi mỡ
Quanh năm múa bút để mua cười
Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược
Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi.
14. Bùi Huy Phồn (Đồ Phồn)

Phất rồi ông mới ăn khao
Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời
Ông đồ phấn, ông đồ vôi
Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng.
15. Hoài Thanh

Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên
Thi nhân còn một chút duyên
Lại vò cho nát lại lèn cho đau
Bình thơ tới thuở bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
Giật mình mình lại thương mình
Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan
16. Vũ Tú Nam

Vốn cùng nhân dân tiến lên
Mùa đông năm ấy bỏ quên cờ đào
Con về nấp bóng ca dao
Giật mình nghe một tiếng chào:
Văn Ngan
17. Hữu Mai

Hỏng đôi mắt phải đâu là mất hết
Trong cặp còn hồ sơ điệp viên
Ông cố vấn chẳng sợ gì cái chết
Cao điểm cuối cùng quyết chí xông lên.
18. Đỗ Chu

Đám cháy ở sau lưng
Đám cháy ở trước mặt
Than ôi mày chạy đâu
Dưới vòm trời quen thuộc
Đốt bao nhiêu cỏ mật
Không bay mùi thơm tho
Càng hun càng đỏ mắt
Quay về thung lũng cò
19. Xuân Quỳnh

Mải hái hoa dọc chiến hào
Bỏ quên chòi biếc lúc nào không hay
Thói quen cũng lạ lùng thay
Trồng cây táo lại mọc cây bạch đàn
20. Phạm Tiến Duật

Trường sơn đông em đi hái măng
Trường sơn tây anh làm thơ cho lính
Đời có lúc bay lên vầng trăng
Lại rơi xuống chiếc xe không kính
Thế đấy! giữa chiến trường
Nghe tiếng bom cũng mạnh!
21. Nguyễn Thành Long

Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra
Trò chơi nguy hiểm đấy thôi mà
Lặng lẽ giữa khoảng trong xanh ấy
Để mối đùn lên đến lúc già.
22. Đào Vũ

Trời thí cho ông vụ lúa chiêm
Ông xây sân gạch với xây thềm
Con đường mòn ấy ông đi mãi
Lưu lạc đâu rồi mất cả tên
23. Nguyễn Bính

Hai lần lỡ bước sang ngang
Thương con bướm đậu trên giàn mồng tơi
Trăm hoa thân rã cành rời
Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ.
24. Nguyễn Văn Bổng (không có hình ảnh )
Nhọc nhằn theo bước con trâu
Hỡi người áo trắng nông sâu đã từng
Mỗi bước đi một bước dừng
Mà sao vẫn lạc giữa rừng U minh.
25. Nguyên Ngọc

Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một mạch nước ngầm
Cuốn trôi đất Quảng lẫn rừng Xà nu
26. Vũ Thị Thường ( Không có hình ảnh )
Từ trong hom giỏ chui ra
Đã toan gánh vác sơn hà chị ơi
Định đem cái lạt buộc người
Khổ thay ông lão vịt trời phải chăn
27. Quang Dũng

"Sông Mã xa rồi tây tiến ơi"
Về làm xiếc khỉ với đời thôi
Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm
Sống tạm cho qua một kiếp người
Áo sờn thay chiếu anh về đất
Mây đầu ô trắng, Ba vì xanh
Gửi hồn theo mộng về tây tiến
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
28. Mai Ngữ ( Không có hình ảnh )
Tưởng chuyện như đùa hoá ra thật
Biết ông sòng phẳng tự bao giờ
Cái con thò lò quay sáu mặt
Vồ hụt mấy lần ông vẫn trơ
29. Nguyễn Khải

Cha và con và... họ hàng và...
Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc
Cho nên chiến sĩ thiếu lương ăn
Họ sống chiến đấu càng khó khăn
Tháng Ba ở Tây nguyên đỏ lửa
Tháng tư lại đi xa hơn nữa
Đường đi ra đảo đường trong mây
Những người trở về mấy ai hay
Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt
Muốn làm cách mạng nhưng lại dát1
30. Hoàng Trung Thông

Đường chúng ta đi trong gió lửa
Còn mơ chi tới những cánh buồm
Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất
Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm
31. Chính Hữu

Tấm áo hào hoa bạc gió mưa
Anh thành đồng chí tự bao giờ
Trăng còn một mảnh treo đầu súng
Cái ghế quan trường giết chết thơ.
32. Thanh Tịnh

Bao năm ngậm ngải tìm trầm
Giã từ quê mẹ xa dòng Hương giang
Bạc đầu mới biết lạc đường
Tay không nay lại vẫn hoàn tay không
Mộng làm giọt nước ôm sông
Ôm sông chẳng được, tơ lòng gió bay.
33. Chu Văn (Không có hình ảnh )
Một con trâu bạc già nua
Nhờ cơn bão biển thổi lùa lên mây
Trâu ơi ta bảo trâu này
Quay về đất mới kéo cày cho xong.
34. Ngô Tất Tố

Tài ba thằng mõ cỡ chuyên viên
Chia xôi chia thịt lại chia quyền
Việc làng việc nước là như vậy
Lộn xộn cho nên phải tắt đèn.
35. Nam Cao

Anh còn đôi mắt ngây thơ
Sống mòn sao vẫn đợi chờ tương lai
Thương cho Thị Nở ngày nay
Kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo.
36. Xuân Thủy ( không có hình ảnh )
Xoắn mãi dây tình thơ bật ra
Paris thì thích hơn ở nhà
Đông y ắt hẳn hơn tây dược
Xe tải không bằng xe Vonga
Trên đời kim cương là quý nhất
Thứ đến tình thương dân nghèo ta
Em chớ chê anh già lẩm cẩm
Còn hơn thằng trẻ lượn Honđa.
37. Lưu Trọng Lư

Em không nghe mùa thu
Mùa thu chỉ có lá
Em không nghe rừng thu
Rừng mưa to gió cả
Em thích nghe mùa xuân
Con nai vờ ngơ ngác
Nó ca bài cải lương.
38. Nguyễn Khoa Điềm

Một mặt đường khát vọng
Cuộc chiến tranh đi qua
Rồi trở lại ngôi nhà
Cất lên ngọn lửa ấm
Ngủ ngon a Kai ơi
Ngủ ngon a Kai à...
39. Nguyễn Kiên

Anh Keng cưới vợ tháng mười
Những đứa con lại ra đời tháng năm
Trong làng kháo chuyện rì rầm
Vụ mùa chưa gặt thóc đã nằm đày kho.
40. Anh Thơ

Ấy bức tranh quê đẹp một thời
Má hồng đến quá nửa pha phôi
Bên sông vải chín mùa tu hú
Khắc khoải kêu chi suốt một đời.
41. Xuân Thiều

"Đôi vai" thì gánh lập trường
Đôi tay sờ soạng con đường cuối thôn
Nghe anh kể chuyện đầu nguồn
Về nhà thấy mất cái hồn của em.
42. Nguyễn Thị Như Trang( Không có hình ảnh )
Nhá nhem khoảng sáng trong rừng
Để cho cuộc thế xoay vần hơn thua
Xác xơ mầu tím hoa mua
Lửa chân sóng báo mây mưa suốt ngày.
43. Bùi Đức Ái (Anh Đức)

Chị Tư Hậu đẻ ra anh
Ví như hòn đất nặn thành đứa con
Biển xa gió dập sóng dồn
Đất tan thành đất chỉ còn giấc mơ.
44. Nguyễn Thế Phương( Không có hình ảnh )
Đi bước nữa rồi đi bước nữa
Phấn son mưa nắng đã tàn phai
Cái kiếp đào chèo là vậy đó
Đêm tàn bến cũ chẳng còn ai.
45. Vũ Trọng Phụng

Đã qua đi một thời giông tố
Qua một thời cơm thầy cơm cô
Còn để lại những thằng Xuân tóc đỏ
Vẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ.
46. Xuân Thiêm
Thơ ông tang tính tang tình
Cây đa bến nước mái đình vườn dâu
Thân ông mấy lượt lấm đầu
Miếng mồi danh lợi mắc câu vẫn thèm.
47. Đào Hồng Cẩm

Bắt đầu từ lão nghị hụt
Cầm dao giết mạng người
Chị Nhàn phải đi bước nữa
Lấy đại đội trưởng của tôi
Cuộc đời mấy phen nổi gió
Phải đem tổ quốc thề bồi
Lần này ông ra ứng cử
Chắc hẳn là trúng nghị viên thôi.
48. Nguyễn Quang Sáng

Ông Năm Hạng trở về đất lửa
Với chiếc lược ngà vượt Trường sơn
Bỗng mùa gió chướng vừa nổi dậy
Ông biến thành thằng nộm hình rơm.
49. Hoàng Văn Bổn

Có những lớp người đi vỡ đất
Mùa mưa không trồng lúa trồng ngô
Lại gieo hạt bông hường bông cúc
Trên mảng đất này hoa héo khô.
50. Phù Thăng

Chuyện kể cho người mẹ nghe
Biển lửa bốc cháy bốn bề tan hoang
Đứa con nuôi của trung đoàn
Phá vây xong lại chết mòn trong vây.
51. Nguyễn Thị Ngọc Tú
Đất làng vừa một tấc
Bao nhiêu người đến cày
Thóc giống còn mấy hạt
Đợi mùa sau sẽ hay
52. Vũ Cao

Sớm nay nhấp một chén trà
Bâng khuâng tự hỏi đâu là núi đôi
Những người cùng làng với tôi
Muốn sang đèo trúc muộn rồi đừng sang
53. Phan Tứ
Bên kia biên giới anh sang
Trước giờ nổ súng về làng làm chi
Mẫn và tôi tính chi li
Gia đình má Bảy lấy gì nuôi anh.
54. Nguyễn Huy Tưởng

Anh chẳng còn sống mãi
Với thủ đô luỹ hoa
Để những người ở lại
Bốn năm sau khóc oà.
55. Thu Bồn

Chim Chơ rao cất cánh ngang trời
Tình như chớp trắng cháy liên hồi
Đám mây cánh vạc tan thành nước
Mà đất ba dan vẫn khát hoài.
56. Bùi Hiển

Sinh ra trong gió cát
Đất Nghệ an khô cằn
Bao nhiêu năm "nằm vạ"
Trước cửa hội nhà văn.
57. Võ Huy Tâm

Đem than từ vùng mỏ
Về bán tại thủ đô
Bị đập chiếc cán búa
Hoá ra thằng ngẩn ngơ.
58. Nông Quốc Chấn

Tưởng anh dọn về làng xưa
Ngờ đâu về tận thủ đô nhận nhà
Sướng cái bụng lắm lắm à
Đêm là đèo gió, ngày là hồ Tây.
59. Thế Lữ

Với tiếng sáo thiên thai dìu dặt
Mở ra dòng thơ mới cho đời
Bỏ rừng già về vườn bách thú
Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi.
60. Nguyễn Minh Châu

Cửa sông cất tiếng chào đời
Rồi đi ra những vùng trời khác nhau
Dấu chân người lính in mau
Qua miền cháy với cỏ lau bời bời
Đọc lời ai điếu một thời
Tan phiên chợ Giát hồn người về đâu?
61. Phạm Huy Thông[img=
Nếu Trương Lương không thổi địch sông Ô
Liệu Hạng Vũ có lên ngôi hoàng đế
Nhưng buồn thay đã đánh mất Ngu Cơ
Đời chẳng còn gì, và thơ cũng thế.
62. Giang Nam

"Xưa tôi yêu quê hương vì có chim có bướm"
"Có những ngày trốn học bị đòn roi"
Nay tôi yêu quê hương về có ô che nắng
Có ghế ngồi viết những điệu thơ vui.
63. Bằng Việt

Nhen lên một bếp lửa
Mong soi gương mặt người
Bỗng cơn giông nổi đến
Mây che một khung trời
Đất sau mưa sụt lở
Mầu mỡ trôi đi đâu
Còn trơ chiếc guốc vàng
Trăng mài mòn canh thâu.
64. Nguyễn Trọng Oánh

Một chút hương thơm trải bốn mùa
Mười năm lăn lội chốn rừng già
Quay về không chịu ơn mưa móc
Đất nắng mưa rồi đất lại khô.
65. Nguyễn Xuân Sanh

Xưa thơ anh viết không người hiểu
"Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà"
Nay anh chưa viết người đã hiểu
Sắp sáng thì nghe có tiếng gà.
66. Thâm Tâm

"Người đi, ờ nhỉ, người đi thật"
Đi thật nhưng rồi lại trở về
Nhẹ như hạt bụi, như hơi rượu
Mà đắm hồn người trong tái tê.
67. Nguyễn Huy Thiệp

Không có vua thì làm sao có tướng
Nên về hưu vẫn phải chết tại chiến trường
Kiếm sắc chém bao nhiêu đầu giặc
Để vàng tôi trong lửa chịu đau thương.
68. Phùng Quán

Hồn đã vượt Côn đảo
Thân xác ở trong lao
Bởi nghe lời mẹ dặn
Nên suốt đời lao đao.
69. Tố Hữu

Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta
Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường, hoa ở đây.
70. Dương Thu Hương

Tay em cầm bông bần ly
Bờ cây đỏ thắm làm chi não lòng
Chuyện tình kể trước lúc rạng đông
Hoàng hôn ảo vọng vẫn không tới bờ
Thiên đường thì quá mù mờ
Vĩ nhân tỉnh lẻ vật vờ bóng ma
Hành trình thơ ấu đã qua
Hỡi người hàng xóm còn ta với mình.
71. Hữu Thỉnh

Cùng đoàn quân anh đi tới thành phố
Bị lạc đường về hội nhà văn
Ờ nhỉ bao giờ quay trở lại
Với năm anh em trên một chiếc xe tăng.
72. Trần Bạch Đằng

Ván bài lật ngửa tênh hênh
Con đường thiên lý gập ghềnh mãi thôi
Thay tên đổi họ mấy hồi
Vẫn chưa tới được chân trời mộng mơ
73. Nguyễn Duy

Mẹ và em đang ở đâu
Giữa vùng cát trắng đêm thâu gió lùa
Ổ rơm teo tóp ngày mùa
Xác xơ thân lúa vật vờ thân tôi
Bờ tre kẽo kẹt liên hồi
Bầu trời vuông với một ngôi sao dời
Đánh thức tiềm lực suốt đời
Ai?
Chẳng ai đáp lại lời của tôi.
74. Nguyễn Mạnh Tuấn

Anh đã đứng trước biển
Cù lao Chàm kia rồi
Nhưng khoảng cách còn lại
Xa vời lắm anh ơi.
75. Trần Mạnh Hảo

Ôi thằng Trần Mạnh Hảo
Đi phỏng vấn Chí Phèo
Lão chết từ tám hoánh
Đời mày vẫn gieo neo
Còn cái lão Bá Kiến
Đục bản in thơ mày
Bao giờ mày say rượu
Bao giờ mày ra tay
76. Hoàng Cầm

Em ơi buồn làm chi
Em không buồn sao được
Quan họ đã vào hợp tác
Đông hồ gà lợn nuôi chung
Bên kia sông Đuống em trông
Tìm đâu thấy lá diêu bông hỡi chàng.
77. Lê Lựu

Người về đồng cói người ơi
Phía ấy mặt trời mọc lại
Một thời xa vắng, xa rồi
Phủ Khoái xin tương oai oái
Ở đời gặp may hơn khôn
Nào ai dám ghen dám cãi
Người đã đi Mỹ hai lần
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi
78. Vũ Quần Phương

Anh đứng thành tro... em có biết
Hôm qua lại gặp chuyến xe bò
Vẫn anh đi trong vầng trăng cũ
Áo đỏ bên cầu đợi ngẩn ngơ.
79. Hữu Loan

Ôi màu tím hoa sim
Nhuốm tím cuộc đời dài đến thế
Cho đến khi tóc bạc da mồi
Chưa làm được nhà
còn bận làm người
Ngoảnh lại ba mươi năm
Tìm mãi nghìn
chiều hoang
biền biệt
80. Lý Văn Sâm
Kiên Trì dấn bước đường chinh chiến
Nửa gánh giang hồ nửa ái ân
Ngàn sau sông Dịch còn tê lạnh
Tráng sĩ có về với bến xuân.
81. Tản Đà

Văn chương thuở ấy như bèo
Thương cụ gồng gánh trèo leo tận trời
Giấc mộng lớn đã bốc hơi
Giộc mộng con suốt một thời bơ vơ
Tiếc chi cụ sống tới giờ
Chợ trời nhan nhản tha hồ bán văn.
82. Lưu Quang Vũ

Cũng muốn tin vào hoa hồng
Tin vào điều không thể mất
Cả tôi và cả chúng ta
Đứng trong đầm lầy mà hát
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm đã chết
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm ai giết1
83. Hà Minh Tuân
Bốn mươi tuổi mới vào đời
Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ
Giữa hai trận tuyến ngu ngơ
Trong lòng Hà nội bây giờ ở đâu?
84. Minh Huệ

Vỡ lòng câu thơ viết
Mời bác ngủ bác ơi
Đêm nay bác không ngủ
Nhà thơ ngủ lâu rồi
85. Văn Cao

Thiên thai - từ giã về dương thế
Nhắc chi ngày ấy buồn lòng ta
Sân đình ngất ngưởng ngôi tiên chỉ
Uống rượu say rồi hát quốc ca
86. Ma Văn Kháng

Khi xuôi anh mang theo
Đồng bạc trắng hoa xòe
Với một mối tình sơn cước
Mùa lá rụng trong vườn
Năm này qua năm khác
Đám cưới vẫn không thành
Vì giấy gía thú chửa làm xong
87. Vũ Bão

Sắp cưới bỗng có thằng phá đám
Nên ông chửi bố chúng mày lên
Đàu chày đít thớt đâu còn ngán
Không viết văn thì ông viết phim.
88. Hồ Dzếnh

Biết mấy mươi chiều khói thuốc bay
Quê nhà vẫn lẩn khuất trong mây
Lui về ký ức chân trời cũ
Uống chén rượu buồn không dám say.
89. Hoàng Phủ Ngọc Tường

Trăm năm ông phủ... Ngọc Tường ơi
Cái nợ lên xanh rũ sạch rồi
Cửa Việt tung hoành con sóng vỗ
Sông Hương lặng lẽ chiếc thuyền trôi
Sử thi thành cổ buồn nao dạ
Chuyện mới Đông hà tái nhợt môi
Từ biệt chốn xưa nhiều ánh lửa
Trăm năm ông phủ... Ngọc Tường ơi!
90. Phạm Thị Hoài
Dẫu chín bỏ làm mười
hay mười hai cũng mặc
Chẳng ai dung thiên số đất này
Dụ đồng đội vào trong mê lộ
Rồi bỏ đi du hí đến năm ngày.
91. Thanh Thảo

Giặc dã yên rồi về
xoay khối vuông Ru bích
Đoán vận rủi may
Thưa quý vị, xin mời1
Xanh tím trắng đỏ vàng đều rõ hết
Ta cùng vào cuộc chơi.
Không gian bốn năm chiều,
thời gian xin tuỳ thích
Đảo lộn tùng phèo thật gỉa trắng đen
"Tôi như cục xà bông thứ thiệt"
Cứ đổ rượu vào
hình quý vị sẽ hiện lên.
92. Trần Dần

Người người lớp lớp
xông ra trận
Cờ đỏ
mưa sa
suốt dặm dài
Mở đợt phá khẩu
tiến lên
nhất định thắng
Lô cốt mấy tầng
đè nát vai
Dẫu sông núi cỏ cây làm chứng
Hồn vẫn treo trên
Vọng hải đài.
93. Khương Hữu Dựng

Ba lô trên vai từ đêm mười chín
"Một tiếng chim kêu sáng cả rừng"
Thì cứ khắc đi rồi khắc đến
Sao còn ngồi đấy cụ già Khương?
94. Bùi Minh Quốc

Tuổi hai mươi xung phong lên Tây bắc
Nguyện hi sinh chiến đấu dưới cờ
Lại xung phong vào Nam đánh giặc
Với bà cụ đào hầm đầu bạc phơ phơ
Hoà bình rồi tiến lên đổi mới
Bất ngờ ngã ngựa chốn non cao
Dẫu thân thể mang đày thương tích
Thì cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao1
95. Ý Nhi

Trái tim với nỗi nhớ ai
Như cây trong phố đứng hoài chờ trăng
Như người đàn bà ngồi đan
Sợi dọc thì rối, sợi ngang thì chùng.
96. Yến Lan

Ra đi từ bến My Lăng
Bao năm dấu kín ánh trăng trong lòng
Tuổi già về lại bến sông
Trăng xưa đã lớn, phải chong đèn dầu
97. Phan Thị Thanh Nhàn

Dấu một chòm thơ trong chiếc khăn tay
Em hăm hở đi tìm người trao tặng
Những kẻ phong lưu, những tên du đãng
Mấy ai biết hương thầm của cô gái xóm đê.
98. Trần Đăng Khoa

Chú dế góc sân hồn nhiên ca hát
Hát thành thơ như nước triều lên
Khi khôn lớn lại hồn nhiên đi giữa
"Biển một bên và em một bên".
99. Hoàng Lại Giang

Người đàn bà một thời tôi ao ước
Trên vành đai Mỹ những năm xưa
Tình yêu đã lụi tàn cùng ký ức
Nhưng còn đây tàn lụi đến bao giờ?
100. Xuân Sách (Tự hoạ)

Cô giáo làng tôi đã chết rồi
Một đêm ra trận đất bom vùi
Xót xa đình Bảng người du kích
Đau đớn Bạch đằng lũ trẻ côi
Đường tới chiến công gân cốt mỏi
Lối vào lửa sởn tóc da mồi
Mặt trời ảm đạm quê hương cũ

Ở một cụm đường rách tả tơi.

23 CommentsChronological   Reverse   Threaded
giaogia wrote on Jul 23
Thích nhất đoạn này:
Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường, hoa ở đây

Chửi bút nô Tố Hữu hay quá ...
nguyenyenson wrote on Jul 23
Khá là công phu.
Thanks anh Hoàng nha!
gioheomay wrote on Jul 23, edited on Jul 23
Không có tự do văn học thiếu hơi thở của những người đang sống ...mà chỉ sống như những người còn thở .Còn thở chưa chắc là còn sống .
giaogia wrote on Jul 23
Cái đoạn về Hoàng phủ ngọc Tường, đáng lẽ phải viết:
Ngàn năm ông Phủ ngọc Tường ơi ..... mới đúng
Vì vụ giết dân Huế năm Mậu Thân, HPNT xứng với câu:
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ ....
giaogia wrote on Jul 23
Không có tự do văn học thiếu hơi thở của những người đang sống ...mà chỉ sống như những người còn thở .Còn thở nhưng chưa chắc là đang sống .
Gió nhận xét thật chí lý, bây giờ coi blog thú hơn, dù là tay ngang ,nhưng mọi người viết thể hiện chính mình
vphu0ng wrote on Jul 23, edited on Jul 23
24. Nguyễn Văn Bổng (không có hình ảnh )
Nhọc nhằn theo bước con trâu
Hỡi người áo trắng nông sâu đã từng
Mỗi bước đi một bước dừng
Mà sao vẫn lạc giữa rừng U minh.
Nhà em có một cuốn tiểu thuyết với tựa đề Con trâu , nhưng mà lại ghi tên tác giả là Trần Tiêu , không phải Nguyễn Văn Bổng ? ???
vphu0ng wrote on Jul 23

Quang Dũng : thích nhất câu thơ " Em đi áo mỏng buông hờn tủi " .
haphan52 wrote on Jul 24
giaogia said
Cái đoạn về Hoàng phủ ngọc Tường, đáng lẽ phải viết:
Ngàn năm ông Phủ ngọc Tường ơi ..... mới đúng
Vì vụ giết dân Huế năm Mậu Thân, HPNT xứng với câu:
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ ....
Đoạn nói về HPNT Hà không rành lắm, nhưng nhớ Quasi cũng nói với Hà về HPNT một cách không thiện cảm giống như GG vậy. Không biết thực hư ra sao?
nguyenyenson wrote on Jul 24
Đoạn nói về HPNT Hà không rành lắm, nhưng nhớ Quasi cũng nói với Hà về HPNT một cách không thiện cảm giống như GG vậy. Không biết thực hư ra sao?
Chị đọc "Biến động miền Trung", hồi ký lịch sử của Liên Thành bên nhà tôi, sẻ hiểu tại sao có nhiều người không thể có thiện cảm với ông HPNT.
Thân mến.
trucngth wrote on Jul 24
em rất thích thơ của HPNT nhưng ... nghe còm của mấy anh chị ở đây sao ... đâm ra lúng túng quá , thật vậy sao ???
hoangguitar wrote on Jul 24
Trả lời chung những ai thắc mắc về HPNT : Ông là một trí thức, và cũng là một nhà thơ tài hoa. Nhưng ông cũng là một đảng viên, một người cách mạng. Các bạn tự tìm hiểu xem những hoạt động của ông vào những thập niên 60, 70 thì có thể hiểu được tạo sao nhiều người không ưa, thậm chí ghét HPNT, mà lại là những người Huế, đồng hương với ông.
vphu0ng wrote on Jul 24
Giải khăn sô cho Huế _ Tác giả Nhã Ca Trần Thị Thu Vân _
thedung1952 wrote on Jul 24
Tài liệu rất quý . Cám ơn !
Comment deleted at the request of the author.
nguyenyenson wrote on Jul 24
Có lẽ bạn nhocquay2009 đã nhầm lẫn giữa bài "Chân dung 100 nhà văn..." với cuốn "100 bài thơ hay nhất...", nên mới có comment như ở trên!
nhocquay2009 wrote on Jul 24
Anh ''' nguyenyenson '' nói đúng , tui đã nhầm giữa 100 bài thơ hay nhất với chân dung 100 nhà văn , tôi vừa mới delete xong cái bài vừa rồi đó anh . cám ơn anh nhắc nhở
trangluong wrote on Jul 25
vphu0ng said
24. Nguyễn Văn Bổng (không có hình ảnh )
Nhọc nhằn theo bước con trâu
Hỡi người áo trắng nông sâu đã từng
Mỗi bước đi một bước dừng
Mà sao vẫn lạc giữa rừng U minh.
Nhà em có một cuốn tiểu thuyết với tựa đề Con trâu , nhưng mà lại ghi tên tác giả là Trần Tiêu , không phải Nguyễn Văn Bổng ? ???
Con Trâu tiểu thuyết của nhà văn Trần Tiêu (1900-1954) - Ông là em ruột của Khái Hưng và cũng tham gia Tự Lực Văn Đoàn.- khác với tác phẩm Con Trâu của Nguyễn Văn Bổng , vPhuong ạ !
Con trâu (tiểu thuyết) Trần Tiêu - Đăng trên báo Ngày Nay từ số 140 ngày 10 tháng 12 năm 1938, sau đó in thành sách do nhà xuất bản Đời Nay ấn hành năm 1940

Còn Nguyễn Văn Bổng (1921 - 2001) viết Con Trâu (1952) đươc Giải thưởng Phạm Văn Đồng năm 1952–53 cho tiểu thuyết này .
hoangguitar wrote on Jul 25
Gặp phải một Encyclopedia rồi nhá. Bái phục !
vphu0ng wrote on Jul 25
Cám ơn sis trangluong . Mấy hôm nay không thấy mọi người trả lời câu hỏi này , em đoán là mọi người có thể chưa biết ( kể cả ông nội Hoàng là người thiên kim bác cổ ) . Cuốn sách Con Trâu của Trần Tiêu nói về người nông dân ở miền Bắc thời Pháp thuộc và những ước mơ bé nhỏ của họ . Cuốn Con Trâu của Nguyễn Văn Bổng em chưa được đọc .
Sis thật giỏi , đúng là Encyclopedia như anh Hoàng khen . Chúc sis happy weekend .
hoangguitar wrote on Jul 25
@Vphuong : Em khen anh thông kim bác cổ thì anh khoái , nhưng "thiên kim bác cổ" thì không khéo anh thành người "thiên cổ" mất. Ôi ! "Một phiến tài tình thiên cổ lụy". Hu hu...
trangluong wrote on Jul 25
@Vphuong : cám ơn anh / chị , lâu rồi mới nhớ lại quyển ấy !
Trước 75 thì đọc Con Trâu cúa Trần Tiêu, đọc thấy cảm động vì đời sống dân quê sao ma `nghèo thê thảm quá , kết thúc bằng trân dịch tả chết gần hết !
Sau, khoảng 78 ra thư viện Nhatrang - trước biển NT - tìm đọc thì ra 1 Con Trâu khác , lạ hoắc - của Ng Văn Bổng , đọc thì khg thích cho bằng " con trâu " cua TT .

@ anh Đờn : có vài cái nhớ lại chút chút thôi, Bách Khoa Tự Điển gì nổi , em cũng hơn lẩn rồi , - dementia- còn nhớ được Blog anh là may lắm!

Làm cái sliceshow bài thơ Tống Biệt Q. hay nhỉ , post dùm bên Entry mới cúa em dùm cái
trucngth wrote on Jul 27
Đọc lại lần nữa , lại thở dài lần nữa ....Có lẽ đã quen với những cái tên , những tác phẩm nỗi tiếng được ca tụng , được bình phẩm... trong các sách giáo khoa hay trên báo chí ; giờ lại biết về một mặt trái của những nhà văn mình mến mộ nên có chút ... buồn buồn !Haizzzzzz!!!
vphu0ng wrote on Jul 27
@Vphuong : Em khen anh thông kim bác cổ thì anh khoái , nhưng "thiên kim bác cổ" thì không khéo anh thành người "thiên cổ" mất. Ôi ! "Một phiến tài tình thiên cổ lụy". Hu hu...
Cám ơn anh Hoàng . Em sẽ ghi nhớ " thông kim bác cổ " . Hồi nào giờ nói sai mà em không biết . Em cám ơn anh Hoàng nhiều .


Không có nhận xét nào: