Thứ Ba, 26 tháng 4, 2011

Sáng tạo độc đáo trong chống tham nhũng

Bộ lịch mang tên “Sex chống tham nhũng/Tình yêu đập tan cái xấu”.
Bộ lịch mang tên “Sex chống tham nhũng/Tình yêu đập tan cái xấu”.
Những cô gái tham gia chụp ảnh cho bộ lịch chủ yếu là sinh viên các trường đại học ở Moscow. (Ảnh: Tờ lịch tháng Tư với khẩu hiệu “Không đưa và không nhận hối lộ”)
Những cô gái tham gia chụp ảnh cho bộ lịch chủ yếu là sinh viên các trường đại học ở Moscow. (Ảnh: Tờ lịch tháng Tư với khẩu hiệu “Không đưa và không nhận hối lộ”)
Tờ lịch tháng Tư: Tôi sẽ không lấy một kẻ tham nhũng
Tháng Tư: Tôi sẽ không lấy một kẻ tham nhũng
Tờ lịch tháng Sáu: Tôi sẽ không để nguyên tắc bị “cưa đôi”
Tháng Sáu: Tôi sẽ không để nguyên tắc bị “cưa đôi”
Tháng Bảy: Tôi sẽ đấm vào mõm tên tham nhũng
Tháng Bảy: Tôi sẽ đấm vào mõm tên tham nhũng
Tờ lịch tháng Tám
Tháng Tám: Tôi sẽ xay bọn chúng ra cám
Tháng Chín: Tôi sẽ dạy cho bạn biến làm thế nào để sống không có tham nhũng
Tháng Chín: Tôi sẽ dạy cho bạn biết làm thế nào để sống không có tham nhũng
Tháng Mười
Tháng Mười: Tôi sé...thiến bọn chúng
Tháng Mười Một: Phong bì chỉ để gửi thư
Tháng Mười Một: Phong bì chỉ để gửi thư
Tháng Mười Hai: Tôi sẽ chữa cho bạn khỏi “bệnh” tham nhũng
Tháng Mười Hai: Tôi sẽ chữa cho bạn khỏi “bệnh” tham nhũng
Tháng Một: Tôi sẽ giáo dục lại những kẻ tham nhũng
Tháng Một: Tôi sẽ giáo dục lại những kẻ tham nhũng
Tháng Hai: Tôi sẽ “báo động” tham nhũng
Tháng Hai: Tôi sẽ “báo động” tham nhũng
Tháng Ba: Mùa săn đã đến
Tháng Ba: Mùa săn chuột tham nhũng đã đến

Tôi và Sách

Định viết bài này hôm 23/6, ngày Quốc tế đọc sách, nhưng bận ăn chơi quá nên hôm nay mới gõ được.
Hồi nhỏ tôi đã mê đọc, không cứ gì sách, cứ cái gì có chữ là đọc. Nói hơi thô một chút chứ hồi đó trong toilet không xài giấy “kiss me” như bây giờ đâu, tòan lấy báo cũ rọc ra rồi gắn vào một cây đinh. Thế là mỗi sáng sớm trong khi giải quyết cái bầu tâm sự tôi tranh thủ trau dồi thêm kiến thức. Đôi khi mê đọc quá quên béng mất là mình dô toilet để làm cái gì, bà già chờ lâu ra kêu inh lên mới miễn cưỡng rời khỏi cái thư viện mini.

Nhà tôi hồi ấy đọc báo tháng. Tôi cứ canh me ông đưa báo tới để tranh thủ đọc qua trước khi ông già về. Mục đầu tiên là truyện kiếm hiệp. Hồi đó các nhà văn viết truyện theo kiểu “feuilleton”, viết đến đâu đăng đến đấy. Truyện kiếm hiệp đầu tiên tôi được đọc là Quỹ Bảo, đến bây giờ vẫn còn nhớ nhân vật chính là chú Hàn thượng Chí. Sau đó là tới chuyện của nhà văn Lê Xuyên, lúc đó đang đăng chuyện Vợ thầy Hương. Ông này có lối kể chuyện rề rà câu giờ phát sợ luôn. Đại khái hôm nay tới đọan ông Cả đang sàm sở vợ thầy Hương, đang để tay lên vai vợ thầy vuốt vuốt, vợ thầy thấy tê lê phê. Ngày mai nhào dô coi thử tới đâu. Lại tiếp tục vuốt, nói chuyện trên trời dưới biển, tay có hạ xuống chút đỉnh. Dậy chớ một tuần sau nữa vẫn cứ vuốt tiếp, những tay đã hạ …xuống mông. Rồi thầy Hương về, ông Cả dọt. Tức ói máu luôn. Sau đó lật ra trang nhất xem tình hình chiến sự. Đại lọai như đêm qua Sài gòn ăn mười mấy quả 122 ly, sập mấy chục căn nhà, chết bị thương một mớ, rồi tin tức thắng trận, thuatrận, nhiêu chết nhiêu bị thương. Mấy cái này đọc qua cho biết chứ không hào hứng mấy, cứ như chuyện xảy ra đâu bên ...Phi châu lận. Thì còn nhỏ mà.

Lớn lên xí đỉnh, có chút tiền bắt đầu mua sách. Những tập sách đầu tiên tôi mua lại là những tập thơ. Nào là Thơ thơ, Gửi hương cho gió, Điêu tàn...Còn nhớ Nha trang có tiệm sách Bình dân, chả biết bán có rẻ hơn chổ khác không nhưng đó là địa chỉ mà những thằng học sinh mê sách như tôi hay ghé. Rồi tôi bắt đầu đọc qua truyện. Chùm truyện của Duyên Anh tôi có không thiếu một tập. Từ những truyện về thiếu nhi như Bồn lừa, Chương còm. Thằng Vũ cho đến những chuyện về giới giang hồ Sài gòn như Điệu ru nước mắt, Châu Kool. Tuổi trẻ không thể thiếu truyện tranh rồi. Thế là tôi có Tin tin, Lucky ( hồi đó chỉ có bản tiếng Pháp) Asterik...Lớn chút nữa tôi "nghiên cứu" Lệ Hằng, Nguyễn thuy Long. Bà Tùng Long tôi cũng có vài cuốn nhưng sau không đọc nữa vì ...thảm quá. Lớn thêm nữa mảng truyện dịch và phóng tác bắt đầu hấp dẫn tôi. Hòang hải Thủy mà phóng tác thì siêu rồi. Dịch Mario Puzo thì Ngọc thứ Lang là trùm sò, không ai qua nổi. Cả những bộ sử thi nặng ký như Chiến tranh và Hòa Bình tôi cũng nhai luôn. Tủ sách của tôi hồi đó có nguyên một ngăn cho lọai sách Học Làm Người của Nguyễn hiến Lê. Còn nhớ trong nhóm này có cuốn "30 ngày thành lực sĩ". Đọc xong là tôi sắm nay cặp ta; đục một cái tạ nặng, mua dây kéo ngực..., ngày ngày hùynh hụych luyện tập. Không thành lực sĩ nhưng cũng đỡ còm cõi. Những tháng hè tôi chuyên tâm luyện chưởng. Sách kiếm hiệp thì không bao giờ tôi mua, chỉ thuê thôi. Thế nên có bộ tôi đọc đi đọc lại đến 5 lần. Rôi Z.28, một pho truyện trinh thám rất độc đáo và phong phú tư liệu mà tác giả, Người Thư Tám, nghe nói là một nhân viên tình báo cỡ bự.

Lên đại học tôi bắt đầu bớt lãng mạn hơn, nghiêm túc hơn, đọc những tác phẩm của các tác giả nước ngòai. Tôi đặc biệt mê Erich Maria Ramarque. Cuốn cuối cùng tôi mua những ngày tháng tư 75 là "Đài tưởng niệm đen của bầy diều hâu gãy cánh" và "Bản du ca cuối cùng của lòai người không còn đất sống". Đang canh me chờ đọc cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông "Bóng tối thiên đường" thì ...phèo.Những tác giả khó nuốt như Nietzsche hay Nikos Kazantzakis tôi cũng sắm một cuốn cho biết khó nuốt cỡ nào. Ôi! Biết kể sao cho hết những tác giả nước ngòai đã đi qua đời tôi. Ở đây nhắc lại tên các vị như một lời tri ân : Arthur Conan Doyle, Boris Pasternak, Dostoievxki, Mark Twain, Charles Dickens, A. Dumas, Herman Hesse, Henry Miller, Hitchkok, E.A. Poe, Ian Flemming, Jack London, Jules Verne, Margarette Mitchell, Saint Exupery, Victor Hugo, Watanabe, Solzhenitsyn, Hector Mallot, Hemingway, Edmondo de Amicis...và còn nhiều nữa.

Tháng 4 năm 75, một đòan người súng ống đến nhà bắt tôi giao nộp các "văn hóa phẩm đồi trụy". Tôi gạt nước mắt nhìn những cuốn sách mình nâng niu bị tống lên xe ba gác, chở về phường. Trong lòng cứ lăn tăn. Cái lọai cách mạng gì mà lại thù ghét sách đến thế nhỉ ? Và chợt nhớ đến Tần thủy Hòang..

Thôi. Nói đến đây lại thấy nghẹn lòng. Không viết nữa. Đố chơi chút nè. Hai tác giả có tác động rất lớn đến không chỉ tôi mà đa số các bạn tôi là Edmondo de Amicis và Hector Mallot. Họ viết cuốn gì thế nhỉ ?

Bây giờ thì trên mạng có đầy. Tôi cũng tạo được một tủ sách trong máy tính. Nhưng vẫn cứ ngàn năm thương nhớ cái "tủ sách đồi trụy" hồi xưa.
Bây giờ thư viện thường treo mấy câu, nghe nói là của Lenin "Không có sách thì không có tri thức, không có tri thức thì không có chủ nghĩa cộng sản". Nhiều người nói trích như thế là chưa đủ, còn thiếu hai câu nữa. Ai biết chỉ dùm cái đi. Thanks


Thư viện của tui nè


PhotobucketPhotobucket

Mong tháng tư qua mau






Những ngày tháng tư, khi nhiều người nao nức chuẩn bị đi chơi, mừng lễ thì tôi luôn có cái cảm giác bâng khuâng. Lại cứ nhớ về quá khứ. Mà nhớ cũng phải. Kỷ niệm quá khứ thì nhiều nhưng đâu phải cái nào cũng làm thay đổi cả một đời người, và hơn nữa, vận mạng của cả một dân tộc.

Những ngày này năm ấy, tiếng súng vẫn còn nổ ở Long Khánh, Xuân lộc nhưng mọi chuyện dường như đã hạ màn. Ông Thiệu sao khi lên truyền hình khóc lóc, mắng mỏ người Mỹ phản bội đồng minh cũng đã bay sang Đài loan . Phó Kỳ sau khi hô hào tử thủ cũng đã tếch lên hàng không mẫu hạm Mỹ. Chức Tổng thống giờ đây như một cục than nóng được quăng qua quăng lại để cuối tuần rơi vào tay Dương văn Minh, một ông tướng sau trận Rừng Sát tiêu diệt Bảy Viễn thì chẳng có gì để nói thêm cả, dù đã có lúc làm Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng sau khi lật đổ tổng thống Ngô đình Diệm.

Gia đình tôi những ngày ấy cũng ổn định theo kiểu của nó. Ông già bị tay Cháu, trưởng công an phường báo bộ đội tới bắt nhốt dằn mặt vì lúc trước dám nhốt cán bộ nằm vùng của ta một đêm, chỉ vì cán bộ ta nữa đêm lôi ông anh ra ngoài đường đánh nhau rần trời đất. Vậy là bố tạm ổn định trong tù. Mẹ tôi thì vẫn những công việc nhà hàng ngày, nói năng thì thào, bớt đi tám với hàng xóm hơn. Chẳng ai bảo ai mà mọi người tự dưng thu mình lại. Cuộc sống bắt đầu nhuốm màu giả dối, thớ lợ kể từ ấy. Tôi cũng đã tạm yên phận với thân phận một giáo viên , khi thì gọi là lưu dung, lúc thì lưu dụng.

Tôi cũng bớt đùa đi. Hình như cứ nhìn mặt những con người mới này tự dưng cái máu đùa tôi nó tắt mất. Bớt thôi, chứ tôi mà không đùa thì có mà chết. Có điều đùa lặng lẽ hơn, trí tuệ hơn. Đến đây chợt nhớ một đoạn trong hồi ký của nhà văn Nguyễn Khải : “Tính hài hước là cái thứ mà người cộng sản ghét nhất vì nó có thể biến mọi chuyện thiêng liêng thành trò cười. Một học thuyết không thể chứng minh sự đúng đắn của nó trong thực tiễn thì trước sau sẽ biến thành tôn giáo.”



Thế! Không nên đùa với tôn giáo. Ngay từ lúc ấy tôi đã biết rồi chứ chẳng cần sau này thấy gương của Azit Nexin , chỉ vì viết truyện trào phúng mà vào tù ra tội, hay gương của nhà văn Rhusdie, vì dám đùa với đấng Ala mà bị các ngài Hồi giáo truy sát phải trốn chui trốn nhủi. Vả lại cũng chẳng có giờ để đùa. Người ta sợ chúng tôi tụ họp lại để đùa nên ấn cho chúng tôi đủ thứ chuyện. Những ngày này chúng tôi còn phải ngày ngày lên trường học tập, phát biểu, viết thu hoạch. Tôi còn nhớ cứ mỗi khi bắt đầu cho phát biểu là tôi xung phong đầu tiên. Nhiều thằng bạn còn tưởng tôi là dân 30/4 nữa cơ. Có mẹ gì đâu, cũng như đái ra cho nó nhẹ bụng vậy mà. Phát biểu xong là tôi có quyền ngồi chơi, vẽ linh tinh, thơ lăng nhăng. Chưa phát biểu thì lâu lâu bị tổ trưởng nhắc “Đ/c … chưa phát biểu nhé.”. Thế có phải khổ không

Học được 2 tuần thì chúng tôi được phát lương : Mỗi người 18 ký gạo và 3 ngàn. Chỉ bở ông bảo vệ. Trừ các giáo viên A vào còn thì tụi tôi thằng nào cũng quăng cái túi gạo cho ổng. Đạp xe đạp đã mệt rồi mà còn chở theo túi gạo lôm côm bỏ mẹ. Phải mãi sau này mới biết quí từng cân gạo. Nhưng đó là chuyện sau này, chứ lúc ấy thì gạo còn khối.

Còn nhớ lúc ấy chúng tôi tập làm quen với những tỉ lệ phần trăm cao chất ngất. Quốc hội đầu tien chúng tôi đi bầu hình như đạt đến 100&. Tỉ lệ đắc cử hình như cũng thế. Người cs có cái thú tự sướng đến là bịnh hoạn. Sau kỳ bầu cử đầu tiên chúng tôi được tập trung đến rạp hát Hưng đạo để nghe ông Nguyễn công Hoan, một dân biểu Quốc hội cũ nay đắc cử đại biểu quốc hội mới. Đại thể ông ta nói là tôi đã làm dân biểu chế độ trước, và bây giờ làm đại biểu quốc hội chế độ mới tôi mới thấy bầu cử như của ta bây giờ mới là dân chủ thứ thiệt ( 5 người ứng cử, bầu …5 người). Công nhận người cs mới đúng là những con người hài hước nhất thế giới. Nói những điều buồn cười đến chết như thế một cách nghiêm trang. Diễu thế mới là diễu chứ. Có điều khoảng nữa năm sau ông Hoan lại vượt biên tuốt. Chắc không thích đùa nữa. Và chúng tôi cũng bắt đầu nói những điều mà mình không nghĩ. Để mà tồn tại chứ.

Cái khả năng thích nghi để tồn tại của con người phải nói là vô hạn. Giống như bây giờ người ta nói :” Hòa nhập chứ không hòa tan”. Bạn bè tôi cũng có vài thằng hòa tan, có thằng vô thức, có thằng có ý thức, nhưng những khi họp mặt hội ái hữu cuối năm không thằng nào dám vỗ ngực xưng hô. Nghe bạn bè mắng đảng ra rả mà chẳng thằng nào đứng ra bênh vực, có thằng còn lúng búng thanh minh tại bị lung tung, thậm chí có thằng còn hùa theo chửi. Mà anh em cũng hiểu cả thôi. Đối với chúng, cũng như với rất nhiều người, đảng chỉ là cái bàn đạp kiếm tiền thôi mà, lý tưởng mẹ gì. Thằng nào có chút lương tri mà lúc này còn tin ba cái chủ thuyết dớ dẩn đó thì đúng là đầu óc có vấn đề.

Đảng lúc này cũng hô hào phản biện. Ừ thì phản biện. Nhưng coi chừng lại thành phản động mấy hồi. Có ranh giới nào giữa hai cái đó đâu. Mới mấy mươi năm mà nhiều trò vui ra phết. Vui nhất là kể từ hồi mở cửa tới giờ. Như một con chim trong lồng lâu nay chẳng bay đi đâu, bây giờ mở cửa lồng cho bay đi bèn bay lung tung xòe, va chổ này, tông chổ nọ. Lại đào lên những thứ đã chôn lấp. Nhớ hồi nào “”trí, phú” là hai hạng cần phải tiêu diệt tận gốc tận rễ. Bây giờ thì liên tục được tôn vinh, cúp vàng cúp bạc , doanh nhân tiêu biểu, tiên tiến cứ nhặng xị cả lên. Mới đây thôi còn là con buôn, là bóc lột. Vui đáo để. Cứ như một gánh hát chèo

Văn chương nữa. Những người bị đày đọa cả một đời chỉ vì vài bài thơ, bài báo lại được phục hồi, kết nạp, tôn vinh nhăng nhít. Những Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt, Hoàng Cầm…được ca ngợi, thậm chí được dựng tượng. Mà thật ra họ có cần phục hồi đâu. Hồi chưa được phục hồi, cái đận Phùng Quán vào Nha trang, bao nhiêu nhà thơ, nhà văn lẽo đẽo đi theo cung phụng, cơm bưng rượu rót, trong đó có tôi. Trong họ ông đã bao giờ bị vùi lấp đâu mà cần phải phục hồi. Ở đây không phải ăn theo người nổi tiếng, nhưng nhớ hồi đó tôi cũng là một thằng đi theo nhậu nhẹt với một nhà thơ mình thích. Và đang cơn say tôi cũng cả gan phát biểu với bác Quán :” Bác nói bác chỉ viết trên giấy có kẻ dòng , bởi vì khi ấy bác mới viết được ngay thẳng. Em nghe thì khẩu khí lắm. Nhưng em nghĩ nếu bác sửa lại là “ Dù giấy có kẻ giòng hay không kẻ, tôi vẫn muôn đời viết thẳng”, nghe còn hoành tráng hơn đấy”. Đúng là ngựa non háu đá. Bác Quán cũng chả thèm chấp.

Cái gì quá đáng cũng làm tôi ghét, dù tả hay hữu. Vùi lấp quá rồi lại tung hô quá cũng đều thể hiện sự thiếu tỉnh táo, một sự lên đồng tập thể. Mà ở ta thì cái chuyện đó xảy ra ngày một. Bây giờ hơi he hé cửa, cho nói năng một chút thì lại xảy ra tình trạng hùa nhau khen, bu vào chửi bới. Không giống người gì cả. Chẳng lẽ tập thể hoá lâu nay người ta đánh mất mình tới mức ấy sao. Chỉ cần suy nghĩ bằng chính cái đầu của mình, dù có sai đi nữa, với nhiều người lại khó khăn đến thế sao. Bao nhiêu năm hô khẩu hiệu đã làm con người ta vong thân đến mức ấy sao ?

Tôi đang nói với các bạn trẻ đấy ạ. Còn với tư cách là một người thầy, tôi đang nói với các em đấy, các em học sinh thân yêu của tôi ạ. Tương lai của chúng tôi không còn dài, nhưng tương lai của đất nước nếu chỉ trông chờ vào những người nghĩ bằng cái đầu của người khác, nói những điều người khác mớm cho…thì quả là bi đát.

Ba mươi sáu năm đã qua. Chúng tôi ngồi hồi tưởng lại quá khứ. Còn các bạn, hãy nhìn vào quá khứ như một tấm gương mà nghĩ đến tương lai.

Mong tháng tư qua mau để tôi lại bắt đầu đùa. Mà cũng lạ ghê. Cứ tới tháng tư là tôi lại làm ăn ế ẩm. Hình như tôi kỵ cái tháng này hay sao ấy.

Thứ Bảy, 23 tháng 4, 2011

Lan man mùa Phục sinh



Tôi cực kỳ khoái cái thể loại “ lan man “ này. Có lẽ nó hợp với tạng người của tôi nhất, nói cho oai một chút là nó hợp với cái nghệ sĩ tính của tôi . Nhưng cứ thấy vui đâu chầu đó như thế này thì cho đến già tôi cũng không thành một ngừời nghiêm chỉnh được. Mà việc gì phải thành một người nghiêm chỉnh nhỉ? Sống là thơ mộng mà chơi. Thế thôi. Ai muốn chết để lại sự nghiệp, tiếng tăm, tài sản gì gì đó thì kệ. Tôi xin để lại tiếng cười. Và tôi tự phong mình là “People’s Comedian”. Ai muốn hiểu sao thì hiểu.
Trên mạng này không thiếu những blogmates của tôi là người Công giáo, do đó phải xin nói trước là tôi chẳng cao đàm khoát luận gì ở đây cả. Tôi chỉ xin trình bày những trãi nghiệm của bản thân tôi về tôn giáo. Có thể nó chẳng hay ho gì, có thể nó đầy dẫy những lỗi lầm. Nhưng chẳng phải là người ta có thể học được rất nhiều điều từ những sai lầm của người khác đó sao? Tôi xin nguyện làm con chiên tế lễ để quí đồng đạo qua tôi mà thêm tin yêu Chúa hơn. Người ta có thể yêu cái đẹp vì chính bản thân cái đẹp. Nhưng người ta cũng có thể yêu cái đẹp khi đem đặt nó bên cạnh cái xấu xí. Hy vọng những kinh nghiệm của một con chiên … thường xuyên đi lạc như tôi có thể giúp quí đồng đạo sống tốt đời đẹp đạo hơn. Chà! Cụm từ này nghe quen thế nhỉ.
Xin trân trọng giới thiệu : Tôi là con nhà nòi, đạo dòng ô ri gin trăm phần trăm. Tôi là kết quả của một mối tình – không biết có đẹp hay không vì lúc đó đã có tôi đâu - giữa một thầy tu xuất và một bà sơ, dĩ nhiên cũng xuất rồi. Chứ đang mặc áo dòng mà yêu nhau rồi sinh ra tôi thì có mà loạn. Thế là vài ngày sau khi sinh, tôi được bố mẹ ẵm đến nhà thờ để rửa tội.Tôi thì đã làm gì nên tội đâu, tội này là do hai vị Adam và Eva truyền lại. Thế là đời xa lắc làm mà đời tôi phải chịu. Thôi cũng được, rửa cho chắc ăn. Vậy là khi được ẳm ra khỏi nhà thờ tôi hoàn toàn trong trắng. Nói dại lúc đó có thằng Taliban nào chơi một quả đùng là tôi bay cái vèo lên Thiên đàng ngay tức khắc. Hai ông bà già tôi thì còn phải kiểm điểm xem thử có đủ tư cách pháp nhân không rồi mới được vào. Mà chắc là chưa được đâu nhé. Sống lâu thế thì chắc là khối tội. Thường thì các vị sẽ không bị xuống hoả ngục đời đời mà sẽ bị giam có thời hạn ở Luyện ngục, cũng khổ không kém hỏa ngục, nhưng còn có thời hạn phóng thích, sau đó mới được lên Thiên đàng đoàn tụ với tôi.
Thời thơ ấu của tôi trôi qua rât thánh thiện . Sáng thức dậy việc đầu tiên phải làm là làm dấu, cảm ơn Chúa đã cho mình sống thêm một ngày nữa. ( Kiểu giống như “Cảm ơn Người mỗi sớm mai thức dậy / Đã cho ta một ngày nữa để ăn chơi” đó mà ). Sau đó là đi lễ. Trước mỗi bửa ăn phải làm dấu , đọc kinh cảm ơn Chúa đã ban cho bữa ăn. Ngon dở gì không biết, cứ có cái ăn là cảm ơn cái đã ( dĩ nhiên phải trừ những món khó tiêu hóa như...ăn đòn hay ăn đạn...). Trước khi đi ngủ phải họp lại đọc kinh, tạ ơn Chúa đã cho một ngày trôi qua, xin Chúa phù hộ cho ngủ yên giấc.
Nói tóm lại thì nếp sống của tôi cũng như mọi người Công giáo khác, có điều tôi đi nhà thờ nhiều hơn tí. Luật đạo chỉ buộc phải đi lể ngày chúa nhật và các ngày lễ trọng thôi, còn tôi là đi suốt. Mọi chuyện cứ thế trôi qua êm ả. Thế rồi lớn lên một chút tôi bắt đầu có những thắc mắc. Tôi bèn đem hỏi bố tôi, chẳng hạn đọc A. Dumas tôi thấy có những triều đại Giáo Hoàng rất bê bết, cũng vợ này con kia, cũng tranh dành quyền lực, cũng âm mưu chém giết. Bố tôi nạt ngay, bảo đó là chuyện phản đạo, do bọn thù địch tung ra để phá đạo. Cũng như bây giờ ai bảo bác nhà ta đã có vợ có con thì đúng là bịa đặt,hay bảo chuyện anh Lê văn Tám không hề đốt kho xăng thì là phản động, mặc dù bây giờ hầu như ai cũng biết Who’s Who rồi. Lúc đó tôi tin bố tôi. Thế nhưng sau này đọc thêm nhiều nữa tôi mới biết cái ông Dumas đó không phản động chút nào, những điều ông viết là những sự thật lịch sử được ông tiểu thuyết hoá một cách khéo léo. Vậy thì tín điều về sự “bất khả ngộ” của Giáo Hoàng phải giải thích thế nào? Bố tôi phải lùi một bước, giải thích rằng GH chỉ bất khả ngộ ( không thể sai lầm ) khi tuyên bố về những tín điều trong đạo thôi, còn với tư cách là một con người thì Ngài vẫn “ngộ”, vẫn có thể sai lầm nhưng mọi người. Tôi vẫn cứ nghĩ : Chúa lựa trong hàng tỉ người để có một người đại diện cho mình sao không lựa một người cho tử tế nhỉ? Hay Chúa cố tình làm ra thế để cho thiên hạ thấy ai cũng “khả ngộ” cả? Tôi chả hiểu được. Càng nghĩ càng …thấy ngộ. hehe
Ngẫm ra tôi thấy để thành một tín đồ tốt là phải chịu khó bớt suy nghĩ lan man dùm, cũng như để thành một công dân tốt thì đừng có mà tơ tưởng đến dân chủ , nhân quyền…Càng nghĩ càng rối thêm. Tôi càng lớn lên thì tôn giáo càng có những đổi mới. Đây đúng là những đổi mới để phát triển. Cũng như ta mà không đổi mới thì bây giờ toàn dân có nước tay bị tay gậy đi ăn mày ráo. Nói dến đổi mới tôi chợt thấy buồn cười. Có chuyện một thằng ngốc kia làm mãi một công việc không xong. Đã bảo là ngốc mà. Trong khi các bạn nó làm xong đi chơi cả. Cuối cùng nó quyết định thôi thì cứ làm theo mấy thằng bạn, và công việc bắt đầu tiến triển. Thế là sau đó gặp ai nó cũng khoe : “ Mày thấy tao khôn chưa? Tao mà không đổi mới cách làm thì bây giờ còn lâu mới được thế này nhé”. Và nó tự sướng, gặp ai cũng khoe um về cái sự “ưu việt” của mình, quên béng mất cái thời ngu si mò mẫm cái cách làm tầm bậy. Đến là chán mấy thằng bờm.
Đổi mới của tôn giáo không phải là cái đổi mới để tồn tại như đổi mới của nhà nước. Đây là một sự đổi mới để hoà nhập cùng thế giới hơn. Những luật lệ cũng bớt khe khắt hơn. Hôn nhân khác đạo bấy giờ cũng trở nên phổ biến, người công giáo được phép thắp nhang, thờ cúng ông bà cha mẹ…Những cái đó chưa ảnh hưởng đến tôi mấy, chỉ có một cái là trong nhà thờ khi dự lễ không còn những câu đối đáp bằng tiếng La tinh vô nghĩa nữa. Bà già tôi một tiếng ngoại ngữ không biết nhưng vô nhà thờ nghe cha phán “Đô mi num vô bít cum” là cứ việc đáp lại như máy “Ê cum sì pi ri tu tu ô” mà chẳng hiểu quái gì. Bây giờ thì nó thành ra là” Chúa ở cùng anh chị em – Và ở cùng Cha”. Thế nghe có phải tình cảm hơn không nào.
Lớn lên tôi lại có những suy nghĩ “phạm thượng” hơn –Có Chúa không nhỉ? Có Thiên đàng hỏa ngục không nhỉ? Hỏi vậy thôi chứ bố ai mà trả lời được. Thế nhưng khi bị công kích thì tôi sẵn sàng liều mình để bảo vệ cho đạo của mình. Nhớ lại lúc nhỏ chơi với mấy nhỏ bạn trong xóm. Lúc thanh bình thì không sao nhưng khi xảy ra chiến sự thì tụi nó chọc tôi “Đức Chúa Giêsu đánh đu gãy cẳng” . Tôi cũng phang lại “Nam mô a di đà Phật cọp vật thầy chùa”, rồi còn ư ử hát " Đầu thầy chùa, nấu canh chua, vài ba tháng còn chua...". Đấu khẩu đã rồi nhào vô đánh nhau. Thì cũng như các hiệp sĩ thánh chiến hồi xưa lên đường chinh chiến để bảo vệ cho Giáo Hoàng đó mà. Sau 75, vị hiệu trưởng trường tôi trong một đêm ngồi tâm sự có giáo huấn cho tôi thế này “ Hồi xưa con người còn dốt nát, thấy các hiện tượng thiên nhiên không giải thích được bèn đổ cho thánh thần thượng đế. Bây giờ chúng ta có học, có kiến thức rồi sao anh vẫn tin Chúa?”. Ôi giời ạ. Cái bài tôn giáo vận sơ đẳng này mà đem hù tôi hả. Tôi bèn nhẹ nhàng hỏi” Thưa anh, kiến thức phải đạt đến mức nào mới khỏi tin ở thượng đế ạ. Anh biết Newton chớ, khi người ta hỏi ông ta một câu tương tự như anh vừa hỏi tôi, ông ta bèn chỉ lên trời và nói” Cứ nhìn đi rồi khắc tin”. Thế thì kiến thức chắc phải hơn Newton nữa kia à. Khó nhỉ!” Anh ta im ngay. Và tôi bèn hù anh ta “ Ngay Engels cũng đã từng nói : Kiến thức lơ mơ làm người ta xa thượng đế nhưng kiến thức sâu sắc đem người ta lại gần Ngài”. Gì chứ trích Engels là thằng em nín khe. Đúng ra câu này của Newton nói, nhưng tôi gán nó cho Engels cho nó…chất lượng cao. Nghệ thuật hùng biện đấy!
Mà phải nói tôi dám chắc tôi đọc nhiều hơn các vị ấy về Marx, Engels, Lenin, mà tôi còn được đọc cả Heidegger, Sartre, Alexis Zorba, Solzhenitsin, Remarque… nữa kia, những thứ mà lúc ấy các vị chắc chưa bao giờ được nghe nói đến. Cho nên tôi nhìn rộng hơn cái giếng kiến thức bé tí mà các vị mới chui lên. Bày đặt tuyên truyền hả. Bỏ đi tám. Sau 75 nghe nói các văn nghệ sĩ ngoài Bắc vào lùng kiếm những tác phẩm mà chúng tôi đã đọc đến nát cả ra. Lúc đó các vị mới thấy ngoài cái miệng giếng đó còn có một khung trời rất rộng với muôn ngàn kỳ hoa dị thảo mà lâu nay họ không được phép thưởng thức. Thế hệ bây giờ thì được đọc nhiều rồi nhưng lại không dám phát biểu những gì mình nhận thức được. Làm con vẹt bao nhiêu năm quen rồi, muốn thành đại bàng cũng khó. Khổ thế đấy.
Ờ ! Mà nói đên đây tôi chợt nhớ đến một câu chuyện cười ra nước mắt. Một hôm tôi cùng với vị hiệu phó ở “A vào” đi thăm phụ huynh học sinh. Vào nhà thấy hình Quan Âm anh ta bèn hỏi tôi: “Thế cái con kia là Thị Mầu hay Thị Kính thế nhỉ?”. Kiến thức về tôn giáo đến thế thì thôi. Chỉ học vẹt dăm ba câu như tôn giáo là thuốc phiện…là tưởng có thể đánh sập tôn giáo tới nơi rồi vậy. Cái anh này lại có lần giảng cho tôi biết rằng thì là tôn giáo nó dựa trên sự ngu dốt của con người. Khi con người ta có đầy đủ kiến thức rồi thì chẳng cần phải ai chống tôn giáo cũng sẽ tự tiêu vong, vì cái nền tảng của nó - sự ngu dốt - không còn nữa. Lần này thì tôi chẳng thèm rỗi hơi để giáo hóa nữa. Cho ngu luôn cho biết. Làm thầy mấy thằng dại ngán lắm. Đấy, bây giờ thì trắng mắt ra đấy. Ai sập đổ rầm rầm thế nhỉ?

Ơ! Tôi lại lan man đi đâu thế này? Trở lại chủ đề tôn giáo thôi. Voltaire, một triết gia vô thần nổi tiếng đã nói ( Voltaire thiệt à nhen ) : “Nếu không có tôn giáo, con người cũng phải tạo ra tôn giáo”. Tôi hiểu câu nói này theo cái nghĩa tôn giáo là một cái thành phần đối trọng giữ cho con người ta khỏi sa đọa quá mức, giúp con người ta không chạy theo vật chất quá đáng. Và như thế chỉ có hay thôi. Chuyện kiếp sau thế nào xin không bàn tới, nhưng rõ ràng là tôn giáo chỉ giúp cho con người sống tốt lên . Tôi thấy những người ở ngoài chợ hung hăng ra phết nhưng vào nhà thờ thì vòng tay đi đứng rón rén thấy thương. Thế thì mặt tích cực của tôn giáo là khỏi phải nói rồi.
Một khía cạnh tiêu cực của tôn giáo cũng như của các chủ thuyết là sự cuồng tín. Nó áp đặt những tín điều mà người đi theo chỉ có tin chứ không bàn cãi. Tôn giáo gọi là những tín điều, những mặc khải ( cũng giống như máy tính cài chế độ mặc định ấy mà, cứ thế mà chạy, chạy kiểu khác là lỗi). Đúng là có những điều không thể giải thích cho mọi người đều hiểu cả, nhưng cứ thế dần dà người ta quen với sự sự tin tưởng máy móc đó, và thế là người ta sẵn sàng làm những việc tàn ác, miễn là những điều đó được chúc phúc. Những vụ đánh bom liều chết là một minh chứng rõ rệt cho sự cuồng tín ấy. Con người Việt nam ta vốn thờ cha kính mẹ, thế nhưng trong một cơn say cuồng tín người ta sẵn sàng sỉ vả đấu tố cha mẹ mình, gọi họ bằng thằng này con nọ cũng là một ví dụ khác gần gũi hơn của cái sự tin tưởng một cách cuồng tín này.
Phải thừa nhận rằng tôn giáo đưa ra những lối sống đẹp quá, đẹp hơn mơ nữa. Chúa dạy : Ai tát con vào má phải, hãy chìa má trái cho họ”. Dĩ nhiên không nên hiểu câu này theo nghĩa đen, có mà điên, nhưng tha thứ đến cỡ ấy thì xin lỗi Chúa, nó tát con mà con không lột da nó là may cho nó lắm rồi. Thế nhưng cũng nên hiểu lý thuyết là một chuyện, áp dụng vào thực tế lại là chuyện khác. Chủ thuyết tôn giáo nào cũng thế. Tuy nhiên đời tôi không dưới một lần, trong những lúc cùng khốn, tôi đã vào nhà thờ quì một mình tâm sự với Chúa, xin Người chỉ cách thoát ra. Dù Người chẳng chỉ vẽ gì nhung khi bước ra khỏi nhà thờ tôi vẫn thấy tâm hồn mình nhẹ hẵn ra. Gánh nặng đã được trút bớt.
Một triết gia khác quên tên đã nói : Người giàu tin ở Chúa vì họ có tất cả, còn người nghèo thì vì họ không có gì”. Vậy là đề huề. Ai cũng có chổ trông cậy ở Chúa cả. Tôi đã nói rồi, tin ở những ước mơ đẹp, tin vào những câu chuyện thần thoại, tin vào cổ tích chỉ có làm con người tốt ra thôi. Vì thế tôi vẫn là người có đạo dù đã lâu tôi không đi nhà thờ. Cứ xưng tội rồi bước ra khỏi nhà thờ lại tiếp tục phạm tội là điều tôi không thích làm. Lúc trước lâu lâu tôi vẫn đi lễ dù chưa kịp xưng tội. Đến khi rước lễ tôi đọc câu kinh mà người có đạo nào cũng thuộc: “Lạy Chúa, con không đáng Chúa ngự vào lòng con nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh”. Đố các bạn biết Chúa có phán không? Tôi thì tin là có, và thế là tôi hùng dũng lên rước lễ, dù với nhiều người đây là một việc làm phạm thánh. Xí! Chúa đâu có nhỏ mọn như mấy người nghĩ. Chúa mà cũng như mấy người thì làm sao gánh tội cho cả trần gian. Đấy, cứ xem cái thằng ăn cướp bị treo cùng Chúa trên đồi Golgotha đó. Chỉ cần một câu “Tôi tin Ngài là con Thiên chúa” vậy là Chúa cho lên Thiên đàng ngồi bên cạnh Đức chúa cha ngay. Oai phết. Chúa phải như thế chứ.

Nhân ngày Phục sinh , xin chúc các đồng đạo và cả những ...bất đồng đạo ( không bất đồng chính kiến đâu nha ) một mùa Phục sinh an lành, tràn đầy hồng ân Thiên chúa. Có dư xin chia cho tôi một chút. Tôi vẫn là một con chiên lạc đàn. Nhưng một ngày kia tôi sẽ quay về. Các vị có nhớ dụ ngôn về đứa con hoang đàng chứ. Thành ra khi thấy tôi quay về mà Chúa mừng rỡ mổ dê mổ bò tổ chức tiệc linh đình thì đừng có mà ghen tị nhé. Máu của Chúa đổ ra chính là vì những kẻ tội lỗi như tôi đấy. Một lần nữa Happy Easter. May God bless all of you!. Amen

Thứ Năm, 7 tháng 4, 2011

Thứ Tư, 6 tháng 4, 2011

'Thư tình gửi một người' của Trịnh Công Sơn (2)

Thư tình Trịnh công Sơn (tiếp) Apr 6, '11 11:26 PM
for everyone
'Thư tình gửi một người' của Trịnh Công Sơn (2)
Trịnh Công Sơn

Anh muốn biết Ánh sáng nay làm gì. Đã có lần Ánh giận anh. Những hôm đó anh buồn và nghĩ là câu nói vô tình của mình mang đầy ích kỷ. Cầu mong cho Ánh những gì Ánh hằng mong.
Chủ nhật 20/9/1964

Dao Ánh,

Buổi sáng Đà Lạt mưa. Trời lành lạnh. Ở Đà Lạt chắc sẽ có rét Nàng Bân suốt mùa.

Những người đi lễ sớm đã băng qua khoảng đường anh nhìn thấy được từ trên này. Chuông nhà thờ đổ lúc anh còn nằm yên ấm trong mền.

Trưa này đã về lại Blao.

Chốc nữa ra phố mua bì thư - uống cà phê và loanh quanh những đồi dốc trải nhựa (không như Blao) - sao anh vẫn thích vẻ tráng lệ của những thành phố hơn Ánh ạ. Rồi ở đó tự đày ải mình vào cái buồn thú hơn. Mình cần phải góp ngôn ngữ của mình vào đám đông. Anh thấy tối cần đó.

Anh xin lỗi phải viết “Bic” vì những chuyến đi surprise[26] như thế này chẳng mang viết lách gì theo cả.

Ánh ơi,

Những lời nói từ Đà Lạt gởi về cho Ánh như thế này đây.

Xin gói những hương hoa ở đây về cho Ánh. Ngô Vũ Dao Ánh.

Trịnh Công Sơn

***

Sài Gòn 28/9/1964

Ánh ơi,

Anh viết thư cho Ánh luôn như thế này những ngày anh ở trong giai đoạn buồn bã nhất của tuổi anh. Khi anh nghiêng mình xuống một hình ảnh trong mát của Ánh anh bỗng thấy mình già nua - quá khứ đã chồng lên cao ngất. Anh thấy mình chưa có một may mắn nào từ khi vào đời. En moi, tout se réduit au minimum. Từ một niềm vui, một nỗi buồn. Từ bạn bè đến tình yêu. Rất đạm bạc, rất bé mọn đó Ánh. Chỉ còn mình Ánh để anh hàn huyên về những khoảng trống đau nhói của mình. Ngoài Cường và Cung. Đó là những "trous" những "hiatus"-vực-thẳm chôn mình bằng những cơn xoáy cuốn hút. Ánh rồi cũng làm loài chim di xám bỏ miền-giá-buốt này mà đi. Lúc đó anh chỉ còn ngồi nghe một lời bể động.

Thành phố đã ồn ào dưới kia. Căn phòng của anh Cung đầy những tranh, đĩa hát, sách báo, giấy tờ, mùng màn, quần áo. Chúng anh sống như thế đó, buồn phải không Ánh. Anh còn những chuyện sẽ kể cho Ánh nghe nếu Ánh thấy thích về những ngày chúng anh sống chuồi mình về phía trước vừa rực rỡ vừa hẩm hiu. Lắm chuyện để tạo dựng nên mình buồn thảm. Chốc anh sẽ ra nhà dây thép bỏ thư. Poste ở đây rộng và cao. Đẹp lắm. Anh nghĩ đến hai bụi hồng của nhà bưu điện Blao. Như một bé bỏng ấu thời. Rồi cũng trở về nằm cho hết những ngày bể dâu.

Anh muốn biết Ánh sáng nay làm gì. Đã có lần Ánh giận anh. Những hôm đó anh buồn và nghĩ là câu nói vô tình của mình mang đầy ích kỷ.

Cầu mong cho Ánh những gì Ánh hằng mong.

Phố sẽ nhộn. Anh sẽ uống một tách cà phê thật đậm ở Pagode. Chiều hôm qua đến tập B. Yến Xin mặt trời ngủ yên hát ở dancing.

Trịnh Công Sơn


Một trang thư tay của Trịnh Công Sơn gửi cho Dao Ánh. Ảnh tư liệu.
Blao, 17/2/1965

Ánh,

Bây giờ là đêm Blao.

Buổi chiều anh xách valise trở về căn nhà thật hoang vắng.

Anh ngồi hằng giờ tưởng như vực sâu mở rộng quanh mình. Không thể nói là nhớ Ánh nữa mà cơ hồ như đã mất đi. Như Ánh đã chết và anh trở về sau những ngày tang chế. Ôi hư vô trên đời - sống - anh làm sao Ánh hiểu thấu. Ánh chưa có giờ phút nào gần anh để nhìn thấy được anh bằng con mắt chân thành. Bấy lâu Ánh chỉ... (mất một đoạn thư gốc).

Những ngọn nến còn sót lại của buổi chiều cuối cùng Ánh ngồi đó. Ôi hư vô là tháng ngày, là những ân - huệ - tình - yêu - hư - vô.

Anh trải chiếc khăn tay nhỏ của Ánh trước mặt và cũng chỉ còn đó là di tích duy nhất của những ngày mùa xuân. Cả cuốn La porte étroite[61]. Anh muốn bày biện những gì của Ánh để xua bớt sự vắng lạnh quanh anh. Mọi người đã ngủ yên.

Còn anh ngồi đây chong đèn nhớ Ánh. Cho anh bàn tay trái có năm ngón giá buốt để anh vào giấc ngủ đêm nay. Bàn tay vẫn thường lạnh băng như mùa đông đã về ngủ đó.

Ánh ơi Ánh ơi Ánh ơi Ánh ơi Ánh ơi Ánh

Anh mong một tai biến nào đó đến cuốn phăng tất cả mất hút đi để anh còn Ánh đời đời. Nếu Ánh còn đó thì một ngày nào anh cũng sẽ mất đi.

Đêm đã dày. Trăng sáng mênh mông trên vùng đồi đã ngủ mê. Anh mong vào giấc ngủ này có năm ngón tay dài giá rét. Ánh cũng đã ngủ rồi có lẽ thế. Bây giờ anh còn ai còn ai. Ánh đã xa rồi làm sao nghe được những lời kêu rêu âm thầm này, như ngôn ngữ của một loài kiến nhỏ. Anh gọi Ánh bằng niềm hư - vô - thần - thoại yêu dấu. Anh sẽ nằm nhắm mắt và ngủ, giấc ngủ có những chồi -non - ngón - tay - mùa - xuân - thần - thoại.

Ôi hư vô đã đầy một đời người.

Ánh ơi Ánh ơi

Đã hằn thù anh từ bao giờ mà xua anh về đày ải nơi đây.

***

Ngày 18/2/1965

Buổi sáng đầu tiên anh dậy trên miền cao này.

Vẫn còn thấy mình bị đày ải vì không khí đầm ấm vừa qua.

Buổi sáng có sương rất mỏng. Anh ngồi hong mình trước thềm nhà rồi đi qua những con đường đất đỏ như vẫn hằng đi.

Nắng cũng lên rồi đó.

Anh phải nói là đời sống mình bị xé rách mới phải. Trở lại nơi đây những ngày đầu thường bị mất thăng bằng. Mong cho nó chóng qua. Mỗi lần đi xa là mỗi lần đánh mất. Cho nên không thể nào khỏi lo lắng. Trừ những tâm hồn kiêu hãnh tuyệt đối mà thôi. Ánh có thể là một kiêu - hãnh - tuyệt - đối. Bạn bè thì ngàn năm vẫn thế. Nhất là nhóm chúng anh.

Những gì xem như tuyệt đối thì không thể biện bạch. Tình yêu cũng là một tuyệt đối.

Anh đang mong tin Ánh. Dĩ nhiên là mong tin vui.

Ánh ở đó dù buồn vẫn còn bạn bè. Anh ở đây thì tuyệt nhiên không có ai.

Càng sống nhiều thì càng độ lượng, càng độ lượng thì càng thấy mình già nua, càng già nua lại càng đánh mất. Bởi vì mỗi ngày mình đã di mình ra xa những nề nếp sống tầm thường. Đó cũng là một loại chu - kỳ - định - mệnh.

Anh nhớ buổi chiều Ánh viết những chữ Destin Destin [62] trong tập Paroles [63] và thấy se thắt.

Ex nihilo nihil fit

Du rien rien ne se fait.

Mỗi người đã đi từ một đời sống hư vô và sẽ trở về một cái chết hư vô. Ai sẽ đi từ một tình - yêu - hư - vô và trở về cô - đơn - hư - vô.

Ôi Ánh - hư - vô, Ánh - không - hư - vô những ngón tay anh giữ rồi có là mây khói. Thật tội nghiệp cho mỗi người. Rồi một ngày nào đó làm những kẻ lạ với nhau. Buổi sáng trước khi lên đây anh đi bỏ thư cho Ánh và ra ngồi một mình ở Pagode.

Thành phố như chìm chết. Hay anh chìm chết. Nhạc lên từ một góc nhỏ mais la vie sépare ceux qui s’ aiment tout doucement sans faire de bruit[64]. Có những lá me rất nhỏ lăn tăn như từng tích buồn bên kia công viên. Tất cả như muốn âm mưu, toa rập trên vẻ hư vô mênh mang anh đang chịu đựng. Anh bỏ đi và về nhà nằm úp mặt không còn lời nói. Chiều nay rồi Ánh ngồi một mình đốt nến với ai. Tóc đã cài hoa hồng chưa sao anh không nhìn thấy. Một ngày một tháng một năm buồn đi cho hết tuổi nhỏ.

Ánh ơi,

Buổi chiều. Anh vừa thức dậy nghe tiếng gió hú ngoài kia như một bầy sói rừng đến đánh thức. Buổi chiều vắng ngắt không còn nghe gì ngoài tiếng gió cũng không còn thấy gì ngoài bãi cỏ lao xao. Gió thổi những đám bụi đỏ đuổi nhau ngoài con đường dốc.

Buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn [65]. Vẻ vắng lặng làm anh thấy bàng hoàng khó tin được mình vừa ở một vùng xanh non trôi nổi về một nơi cằn cỗi như thế này. Ám ảnh của những ngày tương đối êm đềm ở đó vẫn còn chan chứa trong anh. Anh như còn thấy Ánh bước đi, ngồi hát, như còn thấy những ngón tay với hình dáng quen thuộc mà anh hằng nhìn để nhớ trên mỗi buổi chiều. Bóng Ánh như xao động trước mắt anh. Tất - cả - Ánh còn đó còn đó. Anh đã bị đày ải thật rồi đây.

Ánh đã mất đã xa đi ngoài vạn dặm. Phải gọi là niềm chua xót chứ không phải là nhớ đơn thuần.

Nắng vàng đổ xuống và gió cuốn từng bóng nắng đi. Cho anh gọi thêm bao nhiêu lần tên Ánh nữa cho gió mang về.

Gió cũng buồn như mắt người yêu. Buổi chiều thứ năm. Ánh hình như không đến trường. Ánh ở nhà có thắp nến mà nghe gió xa về không.

Những ngày vui qua mau quá. Làm sao giữ nổi một ngày vui cho mình.

Dao Ánh Dao Ánh Dao Ánh

Ở đây anh còn có đâu hy vọng mỗi chiều Ánh sang. Mỗi lần đến là mỗi lần xa lạ hẳn lên. Bỗng nhiên anh lại có cảm tưởng lạ lùng thế.

Đã có bao nhiêu lần anh kể cho Ánh nghe về vẻ hoang vu của những buổi chiều ở đây. Mỗi lần trở dậy là mỗi lần thấy mình bị tước đoạt tất cả. Từ một tình cảm nhỏ đến một tình cảm lớn. Thấy không còn gì không còn gì, như đã bị hắt hủi và mình không còn là mình nữa.

Này Ánh của anh,

Hãy hát lại lời ca của những bài hát quen thuộc đó cho anh nghe.

Buổi chiều nay anh đã chẳng còn ai nữa. Một épave trôi giạt về đây nghe tiếng nói của mình, bước chân của mình, hơi thở của mình là anh đó.

Anh đã có tất cả để rồi không còn gì. Hư vô đã choán chật khoảng sống nhỏ. Từng espace vitale [66]. Ôi buồn là đó là từng sợi thạch nhũ rơi xuống âm thầm quanh đời sống anh có Ánh đứng nhìn như một vì sao buổi chiều, anh làm người chăn cừu trở về trong những tiếng chuông lục lạc. Anh chờ mong thư Ánh và những lời - nói - cho - ngày - tháng ở đây.

Nhớ Ánh - thần - thoại như bao giờ bao giờ.

Cho anh được ru những ngón tay mùa xuân vào thiên thu.

Ánh ơi Ánh ơi

Những ngày tháng còn nghĩa lý gì khi một người đã mất tài sản quí báu nhất của đời mình.

Anh nhớ!

Ánh nhớ Ánh nhớ nghìn năm yêu dấu vô cùng.

Bao giờ hư vô biến mất trên cuộc đời này trên đời anh hở Ánh.

Ánh ơi gió đã đầy cả căn phòng anh trọ. Nhớ Ánh rất thê thiết.

Trịnh Công Sơn

(Trích Thư tình gửi một người, Trịnh Công Sơn, NXB Trẻ 2011)



[1] [26] Bất ngờ, đột xuất,
[2] Tiểu thuyết của nhà văn Pháp André Maurois, xuất bản năm 1909. Bản Việt ngữ của Bùi Giáng xuất bản tại Sài Gòn trước năm 1975 có tên Khung cửa hẹp.,
[3] Số phận số phận,
[4] [63] Tập thơ của thi sĩ Pháp Jacques Prévert, xuất bản năm 1946,
[5] [64] Nhưng cuộc sống chia lìa đôi lứa yêu nhau một cách nhẹ nhàng, không gây xáo động,
[6] [65] Thơ Thế Lữ (Tiếng sáo Thiên Thai),
[7] [66] Khoảng sống,

'Thư tình gửi một người' của Trịnh Công Sơn (1)



Trịnh Công Sơn

'Đêm đã đen như áo dạ bên ngoài. Ánh đang làm gì. Trời đã mưa ở đó rồi phải không. Anh nhớ có lần đưa Ánh về buổi tối đội áo mưa trên đầu. Con đường đen, điện vàng và những nhánh phượng có mùi hăng hắc...'.

Blao, ngày 2/9/1964

Dao Ánh thân mến,

Cơn mơ kéo anh trở dậy vào lúc 3 giờ sáng.

Bây giờ đồi núi Blao còn đêm mù sương và im lìm ngủ. Anh thắp nến trắng viết thư cho Ánh và trùm chăn quanh mình. Miền cao nguyên này lạnh suốt ngày.

Ánh ơi,

Anh hơi lạ lùng là suốt những ngày lên đây anh thường nằm mơ có Ánh. Có Ánh rất yên lành qua những con đường xa lạ của một mùa Hè đã qua mà phượng vẫn còn đỏ ngời. Hình như trời vừa qua một cơn bão lụt nên con đường có vẻ xơ xác. Ánh mặc áo nâu, tóc mềm như mây có cả chiếc nơ màu nâu nhạt cài lên rất huyền hoặc. Anh còn nhớ là suốt con đường đi đó không khí bỗng ấm áp vô cùng. Anh đã trở dậy trong sự trống vắng dai dẳng ở đây.

Đáng lẽ kỳ này anh vào dạy nhạc ở Sư phạm Quy Nhơn (1) nhưng Cường và Cung (2) bảo anh nên thử liều lên nằm ở miền Cao nguyên một lần xem sao. Ở đây mà chờ ngày vào Thủ Đức (3). Thế cũng xong Ánh ạ. Có điều anh không ngờ là vùng đất này buồn đến thế. Những ngày đầu anh lên đây anh ngỡ là mình vừa mang một bản án treo đày về một hoang đảo. Anh chưa bao giờ đối diện với một dáng buồn lạ lùng và bi thảm như thế này. Không thể kể xiết sự hoang vắng bủa vây quanh mình những chiều những đêm có mưa hạt nhỏ qua đây. Buổi sáng thức dậy sương muối xuống đầy cả vùng trước mặt, cây cỏ trắng xóa và những người Thượng đi lấy củi sớm ở những đồi chè xung quanh không còn nhìn thấy nữa. Buổi chiều, có những chiều khô, hay mưa cũng thế, ngồi ở căn phòng, anh nghe rõ cả tiếng kèn đồng thổi về từ một đồn lính ở trên đồi cao rất buồn rất buồn. Như tiếng kèn trong phim Tant qu’il y aura des hommes (4).

Anh có cảm giác mình là một hóa - thân - phiền - muộn treo lửng lơ trong một khoảng không nào đó. Không là đỉnh cao. Không là vực sâu. Một cái gì mang mang không rõ ràng.

Căn nhà anh ở nằm chênh vênh ở một triền dốc. Buổi chiều ở đây chỉ còn tiếng gió hú thật não nuột về ru anh ngủ mà thôi. Anh cảm thấy như mình càng ngày càng đi vào những bất lực và vô vọng to tát hơn. Càng cố vùng vẫy thì càng bị siết lại hay càng bị ngợp chới với hơn.


Thủ bút một lá thư nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi cho Dao Ánh. Ảnh tư liệu
Thủ bút một lá thư nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi cho Dao Ánh. Ảnh tư liệu

Bây giờ đã xa tất cả. Anh em. Người thân. Bạn bè. Vùng đất này như một miền bỏ hoang mà anh đã hiện diện ở đây làm loài củi mục.

Suốt ngày im câm như một số phần không tên, không tuổi, không còn dĩ vãng - tương lai. Ngôn ngữ nào của đô thị, của thành phố ở dưới kia mà anh ao ước được nghe lại, được nói lại vô cùng Ánh ạ.

Hôm nay anh lên Đà Lạt (trước khi về đây), gặp Kim Vui (ca sĩ) lấy xe đưa anh đi chơi quanh thành phố đến khuya. Buổi chiều sắp tối anh có thấy thoáng ai giống như Vũ - anh gọi mà không nghe.

Ở đây đi Đà Lạt và Sài Gòn rất gần. Nhưng anh vẫn thấy có gì cách biệt xa xôi như không liên hệ gì đến nhau.

Đêm ở đây anh thường vào ngủ sớm (9 giờ) bởi vì thành phố không có một sinh hoạt vui chơi nào.

Thành phố cũng chưa có số nhà - ban đêm thì tối mù vì chưa có đèn đường. Trông bi đát lắm. Chán lắm Ánh ạ. Suốt ngày, ngoài những giờ làm việc buổi sáng, anh ngồi nhìn chiều và đêm về trên những con đường dốc đất đỏ, mây thì xuống thật gần thật thấp. Chao ôi là buồn. Có lẽ anh cũng phải tìm cách nào để thoát khỏi nơi đây dù phải làm bất cứ gì để sống. Đời chúng anh phiêu bạt quá nên càng ngày càng tự du mình ra xa những yên lành cũ. Có lẽ một ngày nào đó Ánh cũng gặp lại anh như gặp lại một sự - xa - lạ, một inconnu, một étranger (5) của một thời nào chưa hề có tên để gọi. Đất đai của chúng anh ở dưới kia, vực thẳm bi đát vừa tráng lệ. Anh mong rằng một ngày nào đó con người sẽ căng nọc mình ra trước một tòa án công minh của trời đất để thú tội để trả lời với sự sáng suốt trước mặt... - Sau đó - sau đó sẽ không còn gì hay nếu còn con người thì những con người đó yêu thương nhau, yêu chân lý, yêu sự thật, không dối lừa, không gạt gẫm mình, không sống bằng phù phép ảo tưởng. - Mọi người bây giờ đang đánh lừa mình bằng ảo tượng. Không ai biết sống thực. Chưa ai biết sống cả Ánh ạ. Trên sân khấu rộng lớn vĩ đại của cuộc đời này anh đã bắt gặp được đủ loại người: già, trẻ, giàu, sang, hèn, ngu, giỏi. Tất cả đều chạy tìm ảo tượng. Từ đó đâm ra phỉnh phờ bởi vì phỉnh phờ là yếu tố chính của những cuộc bán buôn. Nhưng rồi anh nghĩ rằng mọi người đều đáng thương, đều là những tội nhân đáng được ân huệ, tha bổng.

***

Bây giờ là đêm lại. Tiếng hát Thái Thanh và Người ra đi (6) của Phạm Duy thật buồn. Thật buồn. Anh nhớ tất cả những người thân, nhớ vô cùng và thấy ấm ức vô cùng. Đêm đã mù sương ngoài kia. Anh không đủ can đảm để nói mãi chuyện buồn của mình. Ánh đã đi học lại chưa. - Mùa thu lá có rụng nhiều ở Huế không.

Làm sao không nhớ những vết tích đã qua. Ôi những gì êm ả đâu còn đâu còn. Anh mong nhận được thư của Ánh về vùng Blao này những mùa lạnh ở đây sẽ ấm cúng hơn. Anh còn cả bao nhiêu tháng ngày rộng mênh mông trải dài cuốn hút đằng trước mặt. Thật ghê rợn như một ám ảnh đen điu.

Bây giờ tháng 9. Anh gởi về cho Ánh sương mù và mây tháng 9 ở đây. Không có quà gì đẹp và buồn hơn nữa cho Ánh.

Anh cầu mong Ánh còn vui hoài và bình an vô cùng ở đó.

Anh không biết phải gửi về cho Ánh ở đâu nên gửi nhờ Thúy đem qua hộ. Đừng phiền. Mong tin Ánh và J’irai pleurer sous la pluie (7).

Trịnh Công Sơn

***

Ngày 3/9/1964

Ánh ơi,

Anh vừa thức dậy. Ngoài cửa sổ mây buổi chiều đã đen từ chân đỉnh đồi. Cơn mưa đã xuống đó. Thật to. Và gió cũng hú dài như một con thú hoang.

Buổi chiều nào cũng buồn như nhau. Cũng chừng ấy hoang vắng. Khung cảnh cũng là mây đen xám, con đường dốc đất đỏ và những bãi cỏ xanh. Anh đã sắp thuộc lòng vẻ buồn ở đây. Mỗi ngày anh tự nhìn rồi tự nhắc lại lầm nhầm như một câu kinh nhật tụng.

Đường dốc bây giờ đã ướt và trắng xóa vì mưa. Chốc nữa anh đi bỏ thư cho Ánh đường sẽ trơn vô cùng. Mưa to lắm Ánh ạ.

Huế chắc cũng sắp gần với những cơn mưa như thế này. Mùa Đông chắc buốt lạnh vô cùng. Anh không hiểu rồi những con đường Ánh sẽ đi học ngang lá có còn xanh như bây giờ không. Suốt hơn một tháng ở Sài Gòn trước khi lên đây anh vẫn hằng đêm vào ngồi ở dancing (8) đến sáng. Đêm nào cũng nghe LinhĐa hát Et j’entends siffler le train... (9) và tiếng hát cũng làm anh đã bao nhiêu lần nhớ lại tiếng hát của Ánh. Đôi lần trở về khuya, còn mang tiếng hát đó trên tóc, anh định viết thư về cho Ánh nhưng lại thôi. - Như hiện tại anh cũng dụ dự lắm vì không hiểu Ánh sẽ như thế nào. Nhưng anh nghĩ là dù thế nào thì điều đó cũng không quan trọng. Từ lâu anh đã quen xem thường những điều bất nhã và không hay đã xảy đến cho mình. Nên anh vẫn gửi thư đi vì lúc này, trong thâm tâm anh thấy là nhớ đến Ánh và cần viết vài hàng về thăm. Như thế là đủ.

Mưa cũng bắt đầu tạnh rồi đó. Trời hơi sáng hơn. Sự yên tĩnh ở đây làm mọi người có cảm tưởng là đang được nằm yên trong một nhà mồ. Yên đến ghê người. Và nỗi buồn thì căng như một sợi dây thòng lọng dài đen buộc lấy cổ. Siết dần. Siết dần. Đến ngột ngạt. Bi đát.

Auras tu jamais le temps de revenir (10). Anh đang hỏi thầm anh. Đang hỏi thầm về đời mình. Thành phố còn người - người thân ở đó. Anh ngại rồi mọi người thân thuộc đang đánh mất dần mình hay ngược lại. Nếu có dịp anh sẽ kể cho Ánh nghe nhiều chuyện vui suốt mùa Hè này. Đã qua. Đã qua, mà anh rất ít gặp Ánh. Chuyện vui của anh - thật lý thú vô cùng.

Thôi anh sắp đi bỏ thư cho Ánh đây. Nếu có thì giờ hãy gửi thư về đây cho vui. Rất mong đó Ánh.

Anh chúc Ánh đời đời quay về đó. Về đó.

Và xin mặt trời ngủ yên. Để Ánh là tournesol (11) mãi mãi. Anh tưởng tượng một khuôn mặt profil (12) mà một đường sáng hồng của mặt trời chạy dài từ chân tóc đến trán - mũi - cằm. Thật huyền thoại như tượng.

Trịnh Công Sơn
Địa chỉ: Bà Trần Thị Phi
Ty Công chánh Lâm Đồng, Blao
(Nhờ đưa lại cho ông Trịnh Công Sơn)

Click vào đây đọc tiếp

Chú thích:

(1) Trường Sư phạm Quy Nhơn, đến năm 1977 là Trường Đại học sư phạm Quy Nhơn, hiện là Trường Đại học Quy Nhơn. Trịnh Công Sơn học tại Trường Sư phạm Quy Nhơn hai năm (1962 – 1964)

(2) Hai họa sĩ Đinh Cường và Trịnh Cung

(3) Trường bộ binh Thủ Đức, nơi đào tạo sĩ quan trừ bị của quân đội Sài Gòn

(4) Phim Mỹ (tên nguyên bản là From here to eternity), trắng đen, sản xuất năm 1953, đoạt tám giải Oscar, đạo diễn: Fred Zinnemann, các diễn viên chính: Burt Lancaster, Montgomery Clift, Deborah Kerr, Frank Sinatra, Donna Reed… Phim được chiếu ở Sài Gòn những năm đầu thập niên 1960

(5) Kẻ vô danh, người xa lạ

(6) Bài Tiễn người ra đi của nhạc sĩ Phạm Duy

(7) Ca khúc Mỹ, nguyên tác Crying in the rain (Khóc trong mưa) do Howard Greenfiled và Carole King hát, lời Pháp J’irai pleurer sous la pluie do Richard Anthony hát.

8) Vũ trường

(9) Ca khúc Pháp Et j’entends siffler le train (Nghe tiếng còi tàu) do Richard Anthony sáng tác năm 1962

(10) Lời trong bài hát Et J’entends siffler le train, tạm dịch “Thời gian có bao giờ trở lại”

(11) Hoa hướng dương.

(12) Nhìn nghiêng

[1] (1) Trường Sư phạm Quy Nhơn, đến năm 1977 là Trường Đại học sư phạm Quy Nhơn, hiện là Trường Đại học Quy Nhơn. Trịnh Công Sơn học tại Trường Sư phạm Quy Nhơn hai năm (1962 – 1964),
[2] Hai họa sĩ Đinh Cường và Trịnh Cung
[3] Trường bộ binh Thủ Đức, nơi đào tạo sĩ quan trừ bị của quân đội Sài Gòn,
[4] Phim Mỹ (tên nguyên bản là From here to eternity), trắng đen, sản xuất năm 1953, đoạt tám giải Oscar, đạo diễn: Fred Zinnemann, các diễn viên chính: Burt Lancaster, Montgomery Clift, Deborah Kerr, Frank Sinatra, Donna Reed… Phim được chiếu ở Sài Gòn những năm đầu thập niên 1960 ,
[5] Kẻ vô danh, người xa lạ,
[6] Bài Tiễn người ra đi của nhạc sĩ Phạm Duy ,
[7] Ca khúc Mỹ, nguyên tác Crying in the rain (Khóc trong mưa) do Howard Greenfiled và Carole King hát, lời Pháp J’irai pleurer sous la pluie do Richard Anthony hát.
[8] Vũ trường,
[9] Ca khúc Pháp Et j’entends siffler le train (Nghe tiếng còi tàu) do Richard Anthony sáng tác năm 1962,
[10] Lời trong bài hát Et J’entends siffler le train, tạm dịch “Thời gian có bao giờ trở lại”,
[11] Hoa hướng dương.
[12] Nhìn nghiêng
[13] Trần gian lưu đày
[14] Phin cà phê
[15] Dấu hiệu tốt
[16] Lời đồn
[17] Tiếng vọng
[18] Sinh nhật
[19] Mờ ảo,
[20] Tên một tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn nữ người Pháp Francoise Sagan, được tác giả viết năm 18 tuổi (1954). Bản dịch tiếng Việt Buồn ơi, chào mi xuất bản ở Sài Gòn trước 1975. Tiểu thuyết được chuyển thể điện ảnh - bộ phim cùng tên với các diễn viên Geoffrey Horne, Deborah Kerr, Jean Seberg, David Niven,

Ký ức 36 năm trước




Những ngày này cách đây 34 năm mình và các bạn mình đang làm gì nhỉ ? Tụi thằng Long thằng Khôi thi đang nghiến răng trụ ở Phan rang, thằng Trung mấy hôm trước còn nằm trên đèo Phượng hoàng với lính dù của tướng Tất giờ này chạy đâu mất tiêu không biết sống chết ra sao, thằng Hải, thằng Dương đã về Nha trang trình diện uỷ ban quân quản rồi, đang chuẩn bị đi học tập. Còn tụi thằng Dư, Quân, Lương ngoài vùng I nghe nói được bốc vô Sài gòn để tử thủ. Hừ! Tử thủ. Nghe sướng cái lổ tai nhỉ. Đa số mấy ông mang sao mang mai bạc gói ghém chuẩn bị con bài chuồn, chỉ mấy thằng mai vàng tụi mình với mấy thằng lính lo tử thủ!
Ông già thì đang lênh đênh trên biển rượt theo con tàu chở tiền của Ngân hàng Việt nam thương tín vào Sàigòn để đòi lại tiền. Mấy triệu bạc trong đó chứ ít sao. Mình cũng đã lên trường cũ trình diện, dẫn học sinh đào hầm trú ẩn, đề phòng Mỹ quay trở lại ( cán bộ nói thế ). Tối tối về nghe lén đài BBC coi tình hình chiến sự tới đâu rồi. Cũng le lói chút tia hy vọng mong manh. Thằng Sơn rủ mình vào Sài gòn bằng đường biển. Nó có ông anh ở Bộ Tổng tham mưu, định nhờ ổng lo cho lên máy bay ra hạm đọi 7. Mình nhìn lại gia đình, chỉ có ba mạng, ông già thì đang lênh đênh trên biển, còn có mỗi bà già. Mình đương nhiên thành chủ gia đình, đi sao được. Thôi , mày đi đi.
Vân cũng chạy lại rủ đi theo gia đình. Nhà Vân đi cũng phải rồi, ông già là trung tá lực lượng đặc biệt, ở lại chắc hổng yên. Cũng đành từ chối. Bây giờ nghĩ lại cái thằng lãng tử như mình, sau này có lúc đi một hồi mấy năm không về nhà mà sao lúc ấy lại quyến luyến gia đình đến thế. Chả hiểu! Tự nhiên tinh thần trách nhiệm lên cao bất tử.
Mình với mấy thằng bạn lại thăm thầy Cung giũ Nguyên, sẵn hỏi ý thầy chuyện đi hay ở. Thầy vốn tinh thông lý số mà. Thầy phán chắc nịch : “ Không sao đâu, rồi sẽ có giải pháp chia đất lại thôi, chẳng cần phải đi đâu”. Cũng mong thầy nói đúng.
Lang thang xuống chợ trời xem những người bộ đội sắm đồ. Đa số bị dân chợ trời gạt trắng mắt ra. Nhìn mấy em hí hửng đeo cái đài lủng lẳng mở oang oang đi ngoài phố như một trạm thông tin di động vừa thấy bực vừa thấy tội. Những em khác thì săm soi cái đồng hồ Seiko “ không người lái, hai cửa sổ” ra cái điều đắc ý như vừa thu được một món chiến lợi phẩm. Vài chú khác thì loay hoay với chiếc xe đạp mới tậu. Cậu nào sắm đủ cả ba món trên coi như tha hồ được anh em ngưỡng mộ. Tiêu chuẩn để được làm người lúc ấy là phải có 3Đ : đài, đổng , đạp mà. Đừng nói gì cho cao xa, hoá ra xương máu đổ ra dưới những mỹ từ cao cả chỉ cốt có thế thôi. Bi kịch!
Cái Timex của mình cũng được vài chú quan tâm hỏi mua. Mình cũng hét chơi một cái giá kha khá. Các chú lảng ngay. Chỉ tiêu lúc này là Seiko thôi. Mẹ khỉ, cái Timex dẹp lép của anh đáng mấy lần cái Seiko của mấy chú đấy. Tò mò đứng nghe họ nói chuyện. Cũng nói tiếng Việt nhưng sao như ở từ một thế giới xa lạ nào đến. Đi lang thang ra sau chợ thấy có một xác chết, nghe nói bị xử bắn vì tội bán đồ dỏm cho bộ đội. Kinh!
Những ngày đó tâm trạng khó tả. Chẳng còn là nỗi sợ hãi nữa. Là một cái gì lơ mơ, hoang mang trước một tương lai không biết sẽ ra thế nào. Thôi kệ. Que sera sera!
Ký ức còn tươi rói thế mà đã 36 năm rồi. Lễ Tro qua chưa lâu. Bỗng nhớ lại câu nói mỗi khi lên chịu xức tro lên trán: “Hỡi người! Hãy nhớ mình là tro bụi, một mai người sẽ trở về bụi tro”